KINH MN 030 – TIỂU KINH VÍ DỤ LÕI CÂY (CŪḶASĀROPAMASUTTAṂ)

I. BẢN KINH MN 030 – (Cūlasāropama-sutta) 

1. Bản tiếng Việt của Hòa Thượng Minh Châu

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-trungbo/trung30.htm

2. Bản tiếng Anh của Bhikkhu Thanissaro

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.030.than.html

3. Bản song ngữ Pali-Việt của Bhikkhu Indacanda

http://paliviet.info/VHoc/13/030.htm

 

II. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHO BÀI KINH MN 030

1. Trích giảng Đại Kinh và Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây – HT. Thích Chơn Thiện

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-trungbo/trung-gg-029-30.htm

2. Toát yếu Đại Kinh và Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi Cây – Thích Nữ Trí Hải

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-trungbo/trung-ty-03.htm

 

III. ĐỀ CƯƠNG

  • Tìm hiểu về lục sư ngoại đạo:
  1.  Purana Kassapa:
  2. Makkhali-Gosàla
  3. Ajita Kesa-Kambala
  4. Pakudha Kàtyayana
  5. Saijaya Belatthaputta
  6.  Nigantha Nàtaputta 
  • Tìm hiểu về nội dung bài Tiểu Kinh Ví Dụ Lõi cây.

IV. THẢO LUẬN

Hoa Nguyen  : Tóm lược ý nghĩa bản kinh : ” này Bà-la-môn, phạm hạnh này không phải vì lợi ích, lợi dưỡng, tôn kính, danh vọng, không phải vì lợi ích thành tựu giới đức, không phải vì lợi ích thành tựu Thiền định, không phải vì lợi ích tri kiến. Và này Bà-la-môn, tâm giải thoát bất động chính là mục đích của phạm hạnh này, là lõi cây của phạm hạnh, là mục tiêu cuối cùng của phạm hạnh”.

Phạm Doãn Để ý, lời Đức Phật nói trong kinh là nói với Bà La Môn! Bà La Môn ở đây là tất cả những người đi tìm sự giải thoát. Bà la Môn theo sự hướng dẫn của Lục Sư là “ngoại đạo”, còn Bà La Môn theo sự hướng dẫn của Đức Phật là “nội đạo”.

Hiếu Nguyễn Nhiều người hay bị lẫn lộn thiền định và các jhana, có thể nhân qua bài kinh này hiểu rõ hơn 2 khái niệm.

Phạm Doãn Chắc không lẫn lộn đâu Hiếu Nguyễn. Nhưng vì có hai quan điểm khác nhau.
– Một, cho rằng Thiền Định (samadhi) của Đạo Phật là hoàn toàn khác với các loại Thiền Định có ở Ấn Độ thời bấy giờ.
– Hai, cho rằng Thiền Định của Đạo Phật cũng giống như là Thiền Định được tu tập từ lâu tại Ấn Độ.
Chỉ tranh cãi này thôi, cũng xé Theravada ra làm hai trường phái khác nhau!

Pāli Việt Nghe sao nói lại vậy:
– Thiền định của Theravāda chỉ gói gọn lại trong 40 đề mục (theo Thanh Tịnh Đạo, có thể kiểm tra với Kinh Tạng xem thừa đề mục nào, thiếu đề mục nào). Lý do: các đề mục này có liên quan đến giải thoát.
– Thiền định của ngoại đạo ắt hẳn có nhiều hơn 40 đề mục trên.
Bản thân đồng ý với quan điểm 2 do Bs. Phạm Doãn nêu ở trên. Nhưng khi đọc xong bài Kinh này thì sẽ chọn quan điểm 1.

Pāli Việt Hic hic, bỏ công làm văn bản Pali – Việt để Bà Con Cô Bác tham khảo, mà không ai chịu sử dụng, buồn thê thảm!

Pāli Việt QÚY VỊ CỨ ĐƯA THẮC MẮC Ở PHẦN TIẾNG VIỆT, CÁC CAO THỦ BIẾT PALI SẼ GIẢI QUYẾT (Ở Pali Chuyên Đề có nhiều mà, nhờ các vị giải quyết giùm). Ví dụ:
Tất cả những vị này tự xưng là nhứt thiết trí hay tất cả không phải là nhứt thiết trí, hay một số là nhứt thiết trí và một số không phải nhứt thiết trí?
Sabbete sakāya paṭiññāya abbhaññaṃsu, sabbeva nābbhaññaṃsu, udāhu ekacce abbhaññaṃsu, ekacce nābbhaññaṃsū”ti.

Pāli Việt KHÂM PHỤC LỐI MÔ TẢ Ở VĂN PALI:
muốn được lõi cây, tìm cầu lõi cây <sāra-tthiko sāra-gavesī> Ở ĐÂY CHỈ GHI: sāra = lõi cây. NHƯNG Ở ĐOAN KẾ:
bỏ qua lõi cây <sāravato atikkammeva> NGHĨA VIỆT ĐẦY ĐỦ: bỏ qua “phần có lõi cây” <sāravato> (ngầm hiểu là người ấy không thể đem về chỉ có lõi cây, mà nguyên cả khúc cây, hay lõi cây còn dính với giác cây) KHÔNG CÒN TỪ NÀO ĐỂ BÌNH!

Pāli Việt TRÍCH PHẦN GIẢNG GIẢI CỦA NI SƯ TRÍ HẢI: – Thắc mắc về sự khác biệt giữa 2 (Thành tựu Định) và 4-12 (Thành tựu Sơ thiền … Diệt thọ tưởng định) đã được Ni Sư trình bày.
Các bước đi giải thoát, cơ bản là tương tự phần giới thiệu ở kinh dài Ví Dụ Lõi Cây. Tuy nhiên, kinh số 30 này có sự trình bày lộ trình giải thoát rất đặc biệt như được trình bày dưới đây;

1) Thành tựu Giới.
2) Thành tựu Định.
3) Thành tựu Tri kiến.
4) Thành tựu Sơ thiền Sắc giới (Phật giáo).
5) Thành tựu Nhị thiền Sắc giới (Phật giáo).
6) Thành tựu Tam thiền Sắc giới (Phật giáo).
7) Thành tựu Tứ thiền Sắc giới (Phật giáo).
8 ) Thành tựu Không vô biên xứ (Phật giáo).
9) Thành tựu Thức vô biên xứ (Phật giáo).
10) Thành tựu Vô sở hữu xứ (Phật giáo).
11) Thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Phật giáo).
12) Thành tựu Diệt thọ tưởng định (Phật giáo).

Chính chứng Diệt thọ tưởng định là an trú Tâm giải thoát bất động, thành tựu mục đích phạm hạnh.

Cần phân biệt ý nghĩa thành tựu Định (điểm 2) ở trên chỉ là sự thành tựu sức mạnh tập trung (samatha) của ngoại đạo, hay ngoại đạo thường thực hiện; riêng từ Sơ thiền Sắc định đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ định cũng là ý nghĩa thành tựu định, nhưng đây là Định uẩn của Phật giáo vốn có mặt trí tuệ tẩy trừ cấu uế tâm, tẩy trừ tham ái và xả các nội thọ (không trước dính nội thọ). Phần Thiền định Phật giáo có nét đặc thù, không tìm thấy ở ngoại đạo, là Thiền quán, tuệ quán (Vipassana). Nhờ sự phát triển trí tuệ mới có thể chứng đắc Diệt thọ tưởng định là định ở ngoài kinh nghiệm của ngoại đạo.

Không có trí tuệ về sự thật như thật, và không chứng đắc Diệt thọ tưởng định thì không bao giờ có thể tự xưng là Nhất Thiết Trí. Đây là câu trả lời cho câu hỏi của Bà la môn Pingalakoccha.
DỨT PHẦN TRÍCH DẪN

Phan Minh Nguyet : “Vị ấy thành tựu Thiền định. Do thành tựu Thiền định, vị ấy hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do thành tựu Thiền định, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước và tinh tấn, chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn sự thành tựu Thiền định. Vị ấy không trở thành biếng nhác và thụ động. Vị ấy thành tựu tri kiến. Vị ấy do tri kiến này hoan hỷ nhưng không tự mãn. Vị ấy không do tri kiến này, khen mình, chê người. Vị ấy phát khởi lòng ao ước, cố gắng tinh tấn để chứng được các pháp khác cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.”
– thành tựu thiền định ở trên là như thế nào? khác gì bát thiền mà Đức Phật mô tả sau đó? Chú Phạm Doãn có nói là có 2 quan điểm khác nhau, chú có thể nói thêm được ko ạ? Cháu chưa biết về vấn đề này.
– tri kiến ở đoạn văn trên là tri kiến gì?

Pāli Việt Góp ý với Phan Minh Nguyet về từ Pali:
– Vị ấy thành tựu Thiền định (samādhi).
– Vị ấy thành tựu tri kiến (ñāṇadassanaṃ).

Phan Minh Nguyet con cảm ơn Sư. Con có ngó qua bản Pali nhưng vì ko biết Pali nên mù tịt ạ:-) Con thấy đoạn trên có chữ samadhi, đoạn dưới có chữ jhanam thì đoán là 2 cái này khác nhau nhưng ko biết là khác nhau thế nào

Phạm Doãn  @ Sư Pali-Pāli Việt & Phan Minh Nguyet :

Thiền định với 40 đề mục được mô tả trong Thanh Tịnh Đạo là loại Thiền Định mà một số người (ngay trong Pali Chuyên Đề) không chấp nhận. Vì đây là loại thiền định có nimitta, được tin là có khả năng giúp hành giả nhìn thấy từng sát na Tâm, nhìn thấy từng cơ cấu vi tế nhất của vật chất. Còn trong Nikaya thì Đức Phật không nói đến nimitta (dấu hiệu báo trước) của thiền định, không nói đến các cơ cấu vật chất nhỏ nhất (tổ hợp Kalapa), và cũng không mô tả các sát na tâm. Cho nên một số người nghi ngờ thiền định trong Thanh Tịnh Đạo là loại thiền “ngoại đạo” khác với loại thiền trong Nikaya là thiền “nội đạo”.

Trong chữ ñāṇadassanaṃ, ñāṇa được dịch là “tri kiến” nên làm cho một số người đọc không nhận ra chữ “tuệ” tại đây! Nếu chữ “ñāṇa” ở đây dịch là sự thành tựu các “tuệ”, thì người đọc sẽ nhân ra nguyên lý “giác ngộ bằng tuệ”, một nguyên lý đặc thù của Đạo Phật. Trong các bài kinh này, sự thành tựu “tri kiến (tuệ) trong ngữ cảnh của bài kinh, chỉ là những tri kiến (tuệ) sơ khởi, chưa giúp hành giả giác ngộ. Hành giả còn cần phải tu tập cho đủ các tri kiến (tuệ) để đạt đến giác ngộ cuối cùng!

Phạm Doãn :  @Sư Pali-Pāli Việt và các đạo hữu.

Khi lập đi lập lại vấn đề “ngoại đạo”, “nội đạo” là con có mục đích làm mọi người tại PLCĐ giảm bớt tâm lý phân biệt giữa Đạo Phật với nền văn minh Bà La Môn. Đạo Phật có nhiều khác biệt với các triết học Bà La Môn đương thời (ví dụ với lục đạo Bà La Môn thời đó) nhưng phải biết là, cả Lục Đạo và Đạo Phật đều cùng chia sẻ chung một “vốn minh triết” hình thành từ lâu trên đất Ấn Độ! Vượt qua sự phân biệt này chúng ta mới hi vọng nhìn thấy phần “nguyên thủy” của Đạo Phật (nếu có ý muốn như vậy).

Thien Nguyen Ba “Thiền định” được đề cập trong bài kinh này, sau giai đoạn có giới đức, trước giai đoạn có tri kiến không phải là 4 thiền hữu sắc, 4 xứ vô sắc và Diệt thọ tưởng (định).

Bởi vì 4 thiền hữu sắc, 4 xứ vô sắc và Diệt thọ tưởng (định) pháp này cao thượng hơn, thù thắng hơn tri kiến.
Như vậy, “thiền định” được đề cập đến bài kinh này là gì?

Pāli Việt Ở bài Kinh này: Vị ấy thành tựu Thiền định (samādhi) và cái này là thấp thỏi so với sơ thiền, nhị thiền, … Diệt thọ tưởng (định).
TRONG KHI ĐÓ: Tam học: Giới – Định – Tuệ (Sīla – Samādhi – Paññā)
LÀM SAO GIẢI THÍCH CHO SUÔNG ĐÂY? Đã trích dẫn lời giải thích của NS. Trí Hải ở trên nhưng thấy chưa thuyết phục lắm.

Phan Minh Nguyet con cũng thấy lời giải thích của NS. Trí Hải chưa thuyết phục lắm

Phạm Doãn Bài kinh có đề cập tới một” đạo lộ tu tập”, nhưng đạo lộ này hơi lạ vì không nói tới thiền quán. Trong khi Thiền Quán để có Tuệ đưa đến giải thoát là một Pp rất riêng, rất đặc thù của Đạo Phật.
Đạo Lộ này trông giống cách tu tập Bà La Môn hơn, vì không có tu tập Tuệ (Vipassana)
Bởi vậy HT Thích Chơn Thiện phải chú thích rằng các Định này là của Phật Giáo! Như sau:

1) Thành tựu Giới.
2) Thành tựu Định.
3) Thành tựu Tri kiến.
4) Thành tựu Sơ thiền Sắc giới (Phật giáo).
5) Thành tựu Nhị thiền Sắc giới (Phật giáo).
6) Thành tựu Tam thiền Sắc giới (Phật giáo).
7) Thành tựu Tứ thiền Sắc giới (Phật giáo).
Thành tựu Không vô biên xứ (Phật giáo).
9) Thành tựu Thức vô biên xứ (Phật giáo).
10) Thành tựu Vô sở hữu xứ (Phật giáo).
11) Thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ (Phật giáo).
12) Thành tựu Diệt thọ tưởng định (Phật giáo).

– Nếu cốt tủy của Đạo Phật là sự khác biệt giữa các loại Thiền Định, thì ngay trong kinh Nikaya, Đức Phật đã phải xác định rồi!
– Hơn nữa nếu kinh mất đi phần phân biệt các loại Thiền Định này, thì từ mấy ngàn năm nay có các tu sĩ hay học gỉa Đạo Phật nào phân biệt được các thiền hữu sắc hay vô sắc của Đạo Phật với các loại thiền của “Ngoại Đạo” hay không?
– Người học Phật đời sau, như chúng ta, luôn chơi vơi, khổ tâm và mất định hướng như thế này !

Phạm Doãn Muốn giải quyết vấn đề như trên, bắt buộc chúng ta phải có một lựa chọn. Mà khi đã lựa chọn, thì chúng ta đã đi ngoặt về một hướng khác, tức là đã gia nhập hay hình thành một trường phái rồi! Khổ tâm không?

Phan Minh Nguyet @ chú Phạm Doãn: bài này ko những ko nói đến thiền quán mà như thế này phải tu cả 4 thiền vô sắc! đúng là khổ tâm nhưng mà cháu ko chọn đường này. Cứ theo các bài kinh khác 4 thiền sắc giới, hướng tam minh đã thấy đường dài xa lắc rồi!

Phạm Doãn Ngay như HT Thích Minh Châu, người dịch hầu hết kinh Nikaya, viện trưởng viện Phật Học VN tại Tp HCM, khi viết cuốn “Hành Thiền” ngài đã nói đến đạo lộ “chín Định” giống như bài kinh này mô tả. (bản này không còn thấy post trên Internet nửa) . Về sau, khi tái bản lại cuốn Hành Thiền (1993), Ngài có sửa đổi nội dung lại, với bốn thiền + tứ niệm xứ.
– Nhắc lại sự kiện này, để thấy Pp tu tập chính thức và nguyên thủy trong Đạo Phật hiện nay đã không còn rõ nét nữa. Ngay cả có nghiên cứu thâm sâu các bộ kinh, phân tích từng chữ Pali v.v… cũng không đem lại một giải đáp mà mọi người đều đồng thuận.
– Và chính vì thế, chỉ còn cách phải lựa chọn một con đường của riêng mình (nếu ta đủ tự tin ở chính mình). Hoặc chọn một trường phái tu tập nào đó, mà ta thấy phù hợp với nhận thức của mình!
– Dù sao đi nữa thì sự tranh cãi sẽ vẫn cứ còn tiếp diễn dài dài …!
(có lẽ cho tới ngày Đức Di Lặc công bố giáo pháp mới!)

Pāli Việt Hì hì, bắt bẻ Bs. Phạm Doãn cái này: <có lẽ cho tới ngày Đức Di Lặc công bố giáo pháp mới!> Dạ thưa không có Giáo Pháp nào mới ạ. Ngài cũng chỉ soi sáng lại Giáo Pháp “cũ” đã bị che lấp thôi ạ.

Pāli Việt AI DA, BỊ NGƯỜI KHÁC BẮT BẺ LẠI (nhận được qua hộp thơ)
<không có Giáo Pháp nào mới>
Con bắt bẻ lại Sư nè:
– Giáo Pháp: teaching methods.
– Pháp: doctrine, nature, truth.
1) Giáo pháp là phương pháp để hiểu rõ Pháp, tức hiểu rõ sự thật.
2) Pháp thì luôn luôn như vậy, ai thấy được thì người đó giải thoát.
3) Giáo pháp có thể khác nhau tùy theo căn tính của mỗi người, mỗi loại chúng sinh. Chẳng hạn đối với 5 anh em Aññakoṇḍañña thì giáo pháp là bài kinh Chuyển Pháp Luận, đối với đại đức Sāriputta giáo pháp là bài kệ về duyên sinh diệt, đối với ngài Cūlapanthaka thì giáo pháp là cái giẻ lau chùi…
4) Những bài kinh trong Nikaya chính là giáo pháp. Xưa chắc chắn có rất nhiều vị giải thoát sau khi nghe xong. Nhưng nay chúng ta càng đọc càng tù mù bởi vì những giáo pháp đó không dành cho căn tính những người như chúng ta.
5) Giáo pháp chính là phương thức soi sáng để thấy Pháp. Nếu năm 2012 này có Đức Di Lặc xuất hiện để soi sáng Pháp thì có lẽ không có kết quả gì. Bởi vì con mắt chúng ta đang còn rất lờ mờ. Nếu chúng ta chịu khó chữa bệnh mắt trong thời gian nhiều kiếp và khi đó con mắt sẽ sáng ra. Vừa lúc Đức Phật Di Lặc xuất hiện, ngài sẽ tùy theo con mắt của mỗi người mà dùng những loại đèn khác nhau để soi cho chúng ta thấy Pháp! Khi đó thì thật là tuyệt vời!!! Hihi.
Chúc Sư luôn khỏe mạnh.

Phạm Doãn Nhiều “ẩn sĩ” không thích xuất hiện với comment. Con cũng nhận được nhiều mess giống như vậy! PLCĐ thực ra cũng có nhiều người đọc hơn so với số người comment hoặc click like. Mong rằng mọi người sẽ mạnh dạn viết comments nhiều hơn.

Ven Adhiṭṭhāna  @Pāli Việt Xin hỏi lại người gửi comment cho Ngài như sau ạ

– 4 đế hay 4 sự thật (dukkha, samudaya, nirodha, magga) trong tứ diệu đế (ariya sacca) là 4 sự thật hiển nhiên bị che lấp và được phơi bày bằng ánh sáng trí tuệ của Đức Thế Tôn qua bài kinh Dhammacakkappavattana hay rồi đây sẽ có giáo pháp mới thay thế 4 điều này ?
– Tiếp nữa, thập nhị nhân duyên (Paṭiccasamuppāda) là đặc tính vận hành tự nhiên của các pháp bị che phủ bởi vô minh hay là 1 giáo pháp mới sau này sẽ thay thế cho 12 điều bị che lắp này ?
– câu gāthā được nói bởi Ngài Assaji phải chăng sẽ có 1 giáo pháp mới thay thế, khi nội dung câu đó nhằm nói đến thực tính các pháp đều có nhân Ye dhammā hetuppabhāvā , sẽ có 1 giáo pháp mới thay thế chăng ?
(tự nhiên có nhiều thắc mắc :P)

Pāli Việt (NHẬN ĐƯỢC Ở HỘP THƠ)
Kính Sư chuyển giúp.
Thưa Sư Adhiṭṭhāna (Ven Adhiṭṭhāna):
– 4 đế hay còn gọi là 4 dấu chân voi, nhưng Sư chưa thấy được con voi nên Sư không thể đoan chắc đó là con voi đực lớn. Sư không thể đoan chắc đó là sự thật.
– 12 nhân duyên Sư chỉ nghe nói chứ Sư không thấy nên Sư không thể cho đó là Pháp, không thể cho đó là sự thật. Bởi vì: “Ai thấy được lý duyên khởi, người ấy (mới gọi là) thấy được Pháp.”
– Chúng ta chỉ nghe chuyện ngài Sāriputta sau khi nghe xong câu kệ của ngài Assaji thì chứng quả, nhưng chúng ta nghe xong thì vẫn trơ ra như gỗ đá. Vậy làm sao chúng ta có thể nhận định câu kệ đó là chân lý?
Cám ơn Sư.
Sư ơi, tới đây thì comment của con sẽ tạm dừng lại. Sư nhớ giữ gìn sức khỏe để thực hiện những việc cần làm của mình nha Sư. Tạm biệt Sư!

Hiếu Nguyễn

Đọc đi đọc lại thì con thấy comment của “ẩn sĩ” rất sâu sắc.
Rõ ràng khi các Đức Phật ra đời thì phương tiện của các ngài xịn hơn nhiều vì trí của các ngài thông hiểu căn tánh và nghiệp chúng sinh.
Còn việc chúng ta làm khi không có các ngài là gom góp lại những gì các ngài đã nói dọc suốt cuộc đời hành đạo và học hỏi theo, được bao nhiêu hay bấy nhiêu. Trong Tam Tạng thể nào cũng có những bài kinh, câu kệ đột nhiên soi sáng cho mình.

Hoa Nguyen   @Phạm Doãn :”- Một, cho rằng Thiền Định (samadhi) của Đạo Phật là hoàn toàn khác với các loại Thiền Định có ở Ấn Độ thời bấy giờ.
– Hai, cho rằng Thiền Định của Đạo Phật cũng giống như là Thiền Định được tu tập từ lâu tại Ấn Độ”.
Thiền Định Đạo Phật giống nhưng không hoàn toàn giống các loại Thiền Định có ở Ấn Độ thời đó. Như không chủ trương khai mở các luân xa bằng kundalini (hoả xà) (thiền Mật tông Tây Tạng có pháp tập khai mở kinh mạch).
Thiền Định Phật giáo khác nhưng không khác hẳn Thiền Định Ấn độ: vẫn tu tập Tứ thiền hữu sắc và Tứ thiền vô sắc, nhưng thêm Diệt thọ tưởng định và quán Tứ niệm xứ; cách thở (điều tức) cũng khác.

Phạm Doãn Thiền (meditation , bhavana) là một khái niệm rất chung.
Trong Thiền Phật Giáo, ta phải phân biệt những loại thiền hoàn toàn khác nhau:
– Thiền Chánh Niệm (Satibhavana),
– Thiền Định (Samadhibhavana),
– Tuệ Quán (Vipassanabhavana)

– “Thiền Định” Bà La Môn gốm tám thiền (4 hữu sắc và 4 vô sắc)
– Cách tu tập khai mở luân xa hoặc luyện luồng hỏa xà (tummo) nên xếp vào “Thiền Quán” (contemplation). Vì người tu tập phải quán tưởng các luồng khí lực dọc theo cột sống lưng.
– Nói các loại Thiền giống nhau hay khác nhau là căn cứ vào “bản chất” hay “nội dung” của loại thiền đó mà không cần phân biệt các loại kỹ thuật thực hiện.

Hoa Nguyen Chánh niệm nằm trong Thiền Định Phật giáo, có cả trong Thiền An Chỉ và Thiền Quán sát, không thể tách Chánh niệm ra làm một kỹ thuật thiền định riêng. Ít ra chưa nghe ai (hay tông, phái PG nào) nói thế. Người ta gán cho thiền sư Nhất Hạnh dạy Thiền Chánh Niệm, nhưng đó chỉ là cách “gắp lửa bỏ vào tay người” để chỉ trích. Chánh niệm chỉ là phần căn bản trong pháp thiền Phật giáo do TS Nhất Hạnh dạy.

Hoa Nguyen Tôi không biết Pali, nhưng nghĩ bhavana không phải nghĩa là Thiền (mà chỉ có nghĩa tu tập, hành trì). Thiền là dịch (âm) từ dhyana (Sanskrit), và trong Pali là jhana.

Binh Anson bhāvanā: ‘mental development’ (lit. ‘calling into existence, producing’) is what in English is generally, but rather vaguely called ‘meditation’. One has to distinguish 2 kinds: development of tranquillity (samatha-bhāvanā), i.e. concentration (samādhi), and development of insight (vipassanā-bhāvanā), i.e. wisdom (paññā).

Xin xem thêm: Buddhist Dictionary – Manual of Buddhist Terms and Doctrines, by NYANATILOKA MAHATHERA http://budsas.110mb.com/ebud/bud-dict/dic3_b.htm budsas.110mb.com

Thuận Pháp Dhammiko

A Glossary of Buddhist Terms:
Bhāvanā [bhāvanā] Mental development through meditation and concentration. Bhāvanā is a mental development. It is of two kinds: with regard to tranquillity (śamatha bhāvanā) [samatha bhāvanā], that is, concentration (samādhi), and with regard to the intuitive insight (vipaśyanā bhāvanā) [vipassanā bhāvanā]. Śamatha means tranquillity. Śamatha is mostly compounded with contemplation or insight. Śamatha pertains to the concentration of the formless realms. Vipaśyanā pertains mostly to the realms of desire and form.
Tranquillity is the undefiled peaceful state of mind. It ushers in favourable rebirth, happiness and purity of mind. The five hindrances vanish and then arises the Vipaśyanā, the intuitive insight into the impermanence, misery, and impersonality of the existence. In the fourth dhyāna of the realm of form, tranquillity and intuitive insight, both are blended. They bring in the four sublime states of brahma-vihāra and the wisdom of enlightenment.
==> samatha bhāvanā: tu tập Định.
vipassanā bhāvanā: Tu tập Tuệ.
Đây chỉ là 2 phương pháp luyện tâm thôi, điều quan trọng trong đó có “LỜI NHƯ THẬT NGỮ” và “CON ĐƯỜNG THÁNH ĐẠO TÁM NGÀNH”:
(PTS: S, IV, 194):

Seyyathāpi bhikkhū rañño paccantimaṃ nagaraṃ daḷahuddāpaṃ. Daḷha pākāratoraṇaṃ chadvāraṃ, tatrassa dovāriko paṇḍito vyatto medhāvī aññātānaṃ nivāretā ñātānaṃ pavesetā, puratthimāya disāya āgantvā sīghaṃ dutayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: “katthambho purisa, imassa nagarassa nagarasāmī” ti?. So evaṃ vadeyya: eso bhante majjhe siṃghāṭake nisinnoti.
Atha kho taṃ sīghaṃ dutayugaṃ nagarasāmissa yathābhūtaṃ vacanaṃ nīyyātetvā yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya. Pacchimāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: uttarāya disāya āgantvā sīghaṃ dutayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: dakkhiṇāya disāya āgantvā sīghaṃ dūtayugaṃ taṃ dovārikaṃ evaṃ vadeyya: “katthambho purisa imassa nagarassa nagarasāmīti? So evaṃ vadeyya: “eso bhante majjhe siṃghāṭake nisinno” ti. Atha kho taṃ sīghaṃ dutayugaṃ nagarasāmissa-6 yathābhūtaṃ vacanaṃ nīyyātetvā yathāgatamaggaṃ paṭipajjeyya.

Upamā kho myāyaṃ bhikkhu katā atthassa viññāpanāya, ayañcevettha attho: nagaranti kho bhikkhu imassetaṃ cātummahābhutikassa kāyassa adhivacanaṃ. Mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa aniccucchādana parimaddana bhedana viddaṃsana dhammassa. Chadvāranti kho bhikkhu, channetaṃ ajjhattikānaṃ āyatanānaṃ adhivacanaṃ. Dovārikoti kho bhikkhu satiyā etaṃ adhivacanaṃ. Sīghaṃ dutayuganti kho bhikkhu samathavipassanānetaṃ adhivacanaṃ. Nagarasāmiti kho bhikkhu viññāṇassetaṃ adhivacanaṃ. Majjhe siṅghāṭakoti kho bhikkhu catunnetaṃ mahābhūtānaṃ adhivacanaṃ: paṭhavidhātuyā āpodhātuyā tejodhātuyā vāyodhātuyā. Yathābhutavacananti kho bhikkhu nibbānassetaṃ adhivacanaṃ. Yathāgatamaggoti kho bhikkhu ariyassetaṃ aṭṭhaṅgikassa maggassa adhivacanaṃ syeyathīdaṃ: sammādiṭṭhiyā, sammāsaṅkappā, sammāvācā, sammākammantā, sammāājīvā, sammāvāyāmā, sammāsati, sammāsamādhissāti.

Ví như, này Tỷ-kheo, có ngôi thành của vua ở biên giới được xây dựng với pháo đài kiên cố, với tường và tháp canh kiên cố và có đến sáu cửa thành. Tại đấy có người giữ cửa thành, là bậc thông minh, có kinh nghiệm và có trí, ngăn chận những người không quen biết, cho vào những người quen biết. Từ phương Ðông, hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: “Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?” Người giữa cửa thành ấy nói: “Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường”. Hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục đi theo con đường họ đến. Từ phương Tây, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến… từ phương Bắc, lại hai người sứ giả cấp tốc đi đến, và nói với người giữ cửa thành: “Này Bạn, vị chủ thành trì này ở đâu?” Người giữ cửa thành ấy nói: “Thưa các Tôn giả, vị ấy đang ngồi giữa ngã tư đường”. Rồi hai người sứ giả ấy cấp tốc tuyên bố lời như thật ngữ cho vị chủ ngôi thành, rồi tiếp tục theo con đường họ đến.

Này Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ để giải thích ý nghĩa, và đây là ý nghĩa: Ngôi thành, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với thân do bốn đại chủng tạo thành này, do cha mẹ sanh, do cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, tiêu mòn, tiêu hao, hủy hoại, hủy diệt. Sáu cửa, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với sáu nội xứ. Người giữ cửa, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với niệm. Hai vị sứ giả cấp tốc, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với chỉ và quán. Người chủ ngôi thành là đồng nghĩa với thức. Ở giữa tại ngã tư đường là đồng nghĩa với bốn đại chủng: địa giới, thủy giới, hỏa giới và phong giới. Lời như thật ngữ, này Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với Niết-bàn. Theo con đường họ đến là đồng nghĩa với con đường Thánh đạo Tám ngành. Như chánh tri kiến… chánh định.

Vo Trong Phi Bhāvanā thường thấy các sư Nam Tông gọi là “tu tiến”. VD: “chú giải cũng nói rằng sự tu tiến (bhàvanà) hay sự thực hành minh sát là một trong những thiện nghiệp ở cõi dục mà người ta phải thực hành để đạt được sự giải thoát như vậy.” (http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-phapduyenkhoi/duyenkhoi-09.htm). Bhāvanā được dịch là “tu tiến” có lẽ căn cứ vào từ “Mental development” từ các định nghĩa trên.

Phap Duyen Khoi – 09

www.buddhanet.net

Chân thành cám ơn Tỳ kheo Thiện Minh, Chùa Kỳ Viên, Quận 3, Sài Gòn,đã gửi tặng phiên bản vi tính. (Bình Anson, 03-2001)

Hoa Nguyen Tôi đọc thấy các sách Thiền xưa ở Bắc tông chia thiền Phật giáo ra làm ba loại:
1/ Định Chỉ (tức An Chỉ): Nhất tâm để có định lực.
2/ Quán Chiếu : như quán Vô Thường, quán chư pháp vô ngã, ngũ uẩn giai Không…, để thấu hiểu các giáo lý Phật giáo. Thiền Minh Sát cũng giống quán chiếu, với đối tượng khác .
3/ Quán Tưởng: Dùng tưởng để tạo ra đề mục thiền (thường không thât) , như hình ảnh một vị Phật (đã thấy qua tranh tượng), cảnh ở Tịnh độ mô tả theo kinh Quán Vô lượng thọ (còn gọi là Quán kinh), các Mandala, tưởng dẫn khí lực (gió) khai mở luân xa, kinh mạch ở Mật tộng. Cả các cách quán khác như Cửu tưởng quán, tưởng thấy thân xác xình thối, tan rã.
Nghĩa là có phân biệt giữa quán chiếu và quán tưởng.

Hoa Nguyen Sau đây là một đoạn trong bài giảng Thiền “Biết và Thấy” của thiền sư Pa-Auk, cho thấy tuy dạy Thiền An Chỉ, nhưng phần này đi qua phần quán tưởng :
Hành giả tu tập Ba Mươi Hai Thể Trược như thế nào?
Nếu muốn tu tập thiền (quán) ba mươi hai thể trược, trứơc tiên hành giả phải lập lại tứ thiền hơi thở (nāpāna jhāna) để ánh sáng của định bừng sáng và tỏa chiếu. Kế đó hành giả sẽ dùng ánh sáng ấy để cố gắng phân biệt ba mươi hai thành phần của thân, mỗi lần một phần.

Ba mươi hai thành phần của thân gồm hai mươi phần với địa đại trội hơn, và muời hai phần với thủy đại trội hơn. Hai mươi phần thuộc địa đại (yếu tố đất) sẽ được phân biệt theo bốn nhóm năm.
I
II
III
IV
1. Tóc
2. Lông
3. Móng
4. Răng
5.Da
6. Thịt
7. Gân
8. Xương
9. Tủy
10. Thận
11. Tim
12. Gan
13. Màng ruột
14. Bao tử
15. Phổi
16. Ruột
17. Trực tràng
18. Vật thực chưa tiêu hóa
19. Phân
20 Óc
Mười hai phần thuộc thủy đại sẽ được phân biệt theo hai nhóm sau:
I
II
1. Mật
2. Đàm
3. Mủ
4. Máu

5. Mồ hôi
6. Mỡ
7. Nước mắt
8. Mỡ nước
9. Nước miếng
10. Nước mũi
11. Hoạt dịch (nước khớp xương)
12. Nước tiểu

Hành giả phân biệt mỗi lần một phần theo thứ tự đã đặt ra. Cố gắng thấy mỗi phần rõ rệt như khi hành giả soi mặt mình trong tấm gương sạch vậy.
Trường hợp, khi đang làm như vậy mà ánh sáng do định sanh mờ đi và thân phần đang được phân biệt không còn rõ ràng, hành giả nên lập lại tứ thiền hơi thở, ánh sáng sẽ bừng sáng mạnh trở lại. Lúc đó quay về với việc phân biệt các thành phần của thân như trước. Bất luận khi nào ánh sáng mờ đi hành giả chỉ việc lập lại tiến trình như vậy.

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-biet_thay/02.htm

Biet & Thay – Pa-Auk Sayadaw

www.buddhanet.net

Pāli Việt SAMĀDHI & SATIPATTHĀNA (Định & Niệm Xứ)
(Trích phát biểu của Ngài Bhikkhu Bodhi)
Ta có thể thấy vấn đề này ngay ở những từ Pāli đơn giản. Thí dụ như từ “samādhi” (định),tiếng Anh dịch là: concentration – tập trung; composure – an tĩnh; collectedness – tự chủ,mental unification – hợp nhất tâm, v.v. nhưng các từ này không chuyển tải được ý nghĩa củasamādhi để chỉ một trạng thái luyện tâm đặc biệt, hay một hệ thống các trạng thái luyện tâm, trong hệ thống huân tập tâm ý của đạo Phật (và trong các đạo giáo Ấn Độ).
Ngay cả từ “sati” (niệm), tiếng Anh thường dịch là “mindfulness”, cũng không phải là không có vấn đề. Từ này phát nguồn từ động từ “sarati”, nghĩa là “ghi nhớ”, và đôi khi trong ngữ văn Pāli, sati vẫn được hiểu như có liên quan đến ý nghĩa về sự ghi nhớ. Nhưng khi từ ngữ đó được dùng trong các pháp hành thiền, chúng ta không có chữ tiếng Anh nào để dịch cho chính xác. Một dịch giả nào đó đã tạo ra chữ “mindfulness”, lúc đó chưa xuất hiện trong cuốn tự điển của tôi. Chữ dịch này cũng khá hay, nhưng tự nó không bảo tồn được ý nghĩa về sự ghi nhớ, đôi khi rất cần thiết để thông hiểu một đoạn kinh.
Từ “satipatthāna” thường được dịch là “founda-tion of mindfulness” (niệm xứ, nền tảng của niệm), nghe có vẻ thanh lịch; nhưng nếu ta hiểu Pāli, ta có thể nghi ngờ, hợp từ ấy không bắt nguồn từ sati + patthāna (từ đó, dịch là niệm xứ), mà là sati + upatthāna, nghĩa là”establishment of mindfulness” (sự thiết lập niệm). Rồi, nếu ta hiểu kinh văn gốc, ta sẽ thấy có rất nhiều câu, trong đó, sati được dùng với những từ có liên hệ đến upatthāna, nhưupatthitas-sati (người có niệm được thiết lập), mà không có câu nào kết hợp sati với các từ có liên hệ đến patthāna. Điều này xác minh cho việc chúng ta nên dịch sati-patthāna là “sự thiết lập niệm – establishment of mindfulness”, hơn là dịch “nền tảng của niệm, niệm xứ”. Cho dù từ “niệm xứ – foundation of mindfulness” nghe có vẻ thanh lịch, điểm quan trọng ở đây là tiến trình nội tâm để thiết lập chánh niệm, chứ không phải là về đối tượng của quán niệm.
http://budsas.110mb.com/uni/u-lttt/lttt-4.htm

Ly Thuyet & Thuc Te – Binh Anson

 


KINH MN 010 – KINH NIỆM XỨ (Satipatthàna sutta)

I.    BẢN KINH MN 010 – Kinh Niệm Xứ (Satipatthanà)

1.   Bản tiếng Việt của HT. Minh Châu:

http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung10.htm

2.   Bản tiếng Việt dịch từ tiếng Anh của Narada Mahathera:

  http://www.budsas.org/uni/u-dp&pp/dp&ppx6.htm

3.   Bản tiếng Anh của Nyanasatta Thera:

The Foundations of Mindfulness

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.010.nysa.html

4.   Bản tiếng Anh của Soma Thera:

The Discourse on the Arousing of Mindfulness

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.010.soma.html

5.   Bản tiếng Anh của Thanissaro Bhikkhu:

Frames of Reference

http://www.accesstoinsight.org/tipitaka/mn/mn.010.than.html

6.   Bản song ngữ Pali-Việt của Bhikkhu Indacanda

http://paliviet.info/VHoc/13/010.htm

7.   Bản tiếng Việt của T.T. Thích Nhất Hạnh

http://www.thuvien-thichnhathanh.org/index.php/kinh-sach/36-kinh-vn/161-kinh-bn-lnh-vc-quan-nim

 

II.  TÀI LIỆU THAM KHẢO cho bài kinh MN 010

1.   Giảng Giải Kinh Đại Niệm Xứ

Tác giả: Ngài Pa Auk Sayadaw, TỲ Khưu Pháp Thông dịch Việt

http://www.facebook.com/groups/paliviet/329721687114949/

2.   Luận Giải Kinh Tứ Niêm Xứ

Tác giả Thiền sư U Sinalanda, Tỳ Khưu Khánh Hỷ dịch Việt

http://www.budsas.org/uni/u-dainiemxu/dnx-idx.htm

3.   Tứ Niệm Xứ Giảng Dạy

Tác giả: Ngài S.N. Goenka, Tỳ Khưu Pháp Thông dịch Việt

http://www.trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/TuNiemXu/index.htm

4.   Thiền Tứ Niệm Xứ – Minh Sát Tuệ

Tác giả: Hòa Thượng Giới Nghiêm,

http://buddhanet.net/budsas/uni/u-dainiemxu/gntnx01.htm

5.   Giảng Kinh Tứ Niệm Xứ – Thích Chơn Thiện http://www.budsas.org/uni/u-phathoc-kl/phkl-2-14.htm

6.   Tứ Niệm Xứ- Bốn Nền Tảng của Chánh Niệm Tác giả Bhikkhu Brahmavamso, Dr. Bình Anson dịch Việt http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-vbud/vbthn026.htm

7.   Toát Yếu Kinh Trung Bộ – Thích Nữ Trí Hải

http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung-ty-01.htm

8.   The Way of Mindfulness by Soma Thera

http://www.accesstoinsight.org/lib/authors/soma/wayof.html

III. ĐỀ CƯƠNG:

Tìm hiểu các từ Pali trong bài kinh, được xem là khó hiểu, gây tranh cãi, quan trọng, hoặc có xuất hiện nhiều trong văn bản Pali. (Vì sự sống còn của Pháp Bảo, kính thỉnh sự giúp đỡ đặc biệt của quý sư có hiểu biết về ngôn ngữ Pali.)

Cố gắng học hiểu chính xác nội dung của bài kinh, bằng cách so sánh các bản dịch (mọi ngôn ngữ) với nguyên bản Pali.

Tìm thêm các tài liệu tham khảo “đáng tin cậy”, “có giá trị” về cách hiểu bài kinh Niệm Xứ và phương pháp thực hành Tứ Niệm Xứ.

Thảo luận để cố xác định phương pháp thực hành đúng Tứ Niệm Xứ.

Thử tìm hiểu nguyên nhân gây ra sự khác biệt trong cách thực hành Tứ Niệm Xứ của các trường phái hiện nay.

Thử tìm hiểu về bài kinh Niệm Xứ trong kinh điển A Hàm và cách tu tập Tứ Niệm Xứ của các tông phái thuộc Đạo Phật phát triển.

So sánh, đối chiếu các trường phái tu tập Tứ Niệm Xứ khác nhau của Theravada

Các thành viên tự nhận định và rút ra kết luận riêng cho mình.

Khuyến khích các thành viên tạo Document trình bày quan điểm của mình về bài kinh NIỆM XỨ.

IV. VỀ VIỆC TẠO CÁC SUB-DOCUMENTS

Bài kinh MN 010 Kinh Niệm Xứ (Satipatthanà) là một đề tài quá lớn. Để lưu giữ được nhiều thông tin sau thảo luận, một cách khoa học, để dễ dàng truy cập về sau. Kính mời mọi người lưu ý về việc đưa các phần thảo luận vào đúng các Sub-Documents mà chúng ta sẽ lần lượt tạo ra khi thảo luận đi ngang qua các đề tài đó.

Trước hết ta đang có những Sub-Documents này:

1. Thảo luận về một số Từ và Câu PALI trong kinh Niệm Xứ

http://www.facebook.com/groups/paliviet/doc/329445147142603/

2. Chú Giải Phần đầu bài kinh NIỆM XỨ

http://www.facebook.com/groups/paliviet/doc/331103590310092/

3. Pháp hành QUÁN HƠI THỞ trong phần QUÁN THÂN TRÊN THÂN

http://www.facebook.com/groups/paliviet/doc/331374253616359/

4. Katame cattāro?

http://www.facebook.com/groups/paliviet/doc/331000913653693/

5. Tâm Sở Niệm

http://www.facebook.com/groups/paliviet/doc/334007456686372/

V. THẢO LUẬN

Hạnh Trương <<Đức Phật Ngài giảng theo tuần tự, thì tuần tự mà hành thôi>>

cái này HT có quan điểm khác, nó như học võ thôi, lúc học thì có thứ tự, vì không thể nói 1 lúc hết các thứ được, còn khi thực hành thì tùy địch thủ ra sao mà mình dùng chiêu phù hợp.

Nếu quán thọ mà nhiếp phục được tham ưu thì dùng quán thọ, nếu quán tâm mà nhiếp phục được … thì dùng quán tâm… làm riết rồi nó … hihi.

Chanhtrikien Nhanqua

Hay quá!

Nếu không phải vậy thì ta sẽ có tới 7 pháp độc lập, 3 cái này và 4 cái kia (TTTP), hihi.
Nếu quán thọ mà nhiếp phục được tham ưu thì dùng quán thọ, nếu quán tâm mà nhiếp phục được … thì dùng quán tâm… làm riết rồi nó … hihi.

Bạn Hạnh Trương làm rỏ 3 cái này là gì luôn nhé! Cho rỏ thêm mà.

Câu hỏi:
Nếu là độc lập: Vậy ta có thể luôn luôn quán tâm không? Không cần quán 3 cái còn lại?
Hay là có lúc ta quán tâm, có lúc ta quán thọ, có lúc ta quán thân, có lúc ta quán pháp?

Hạnh Trương Đã nói chuyện đánh nhau rồi mà, địch nó đá vào dưới thắt lưng, lại cứ đỡ mặt sao 🙂

Chanhtrikien Nhanqua ‎:) hiểu rồi!

Nhưng vẫn chưa thỏa mãn :). Hỏi tiếp:
7 pháp độc lập: 3 cái này và 4 cái kia (quán thân, thọ, tâm, pháp).

3 cái này có phải là: ātīpī (nhiệt tâm, tinh cần); sampajāno (có sự nhận biết), satimā (có chánh niệm) không vậy bạn Hạnh Trương?

==> Và kết quả có phải là chế ngự tham ưu ở đời, và tổng hợp kết quả cuối cùng là Chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu còn hữu dư y, thì chứng quả Bất hoàn.

Hạnh Trương ‎3 cái này đúng là 3 cái đó :), còn kết quả thì còn tùy làm 3 cái đó với 4 cái kia tới đâu 🙂 ( ý riêng của HT thôi nha)

Thuận Pháp Dhammiko

Ven Adhiṭṭhāna:<<“Bốn điều nào? Ở đây (ngay trong giáo pháp này), này các thầy tỳ khưu ! một vị tỳ khưu trú trên thân có sự theo dõi thân, có sự nhiệt tâm, sự hiểu biết (bằng trí tuệ), có (chánh) niệm, nếu (vị tỳ khưu đó) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian; (vị tỳ khưu đó) trú trên các cảm thọ, có sự theo dõi cảm thọ, có sự nhiệt tâm, sự hiểu biết (bằng trí tuệ), có (chánh) niệm, nếu (vị tỳ khưu đó) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian; (vị tỳ khưu đó) trú trên tâm, có sự theo dõi tâm, có sự nhiệt tâm, sự hiểu biết (bằng trí tuệ), có (chánh) niệm, nếu (vị tỳ khưu đó) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian; (vị tỳ khưu đó) trú trên các pháp, có sự theo dõi pháp, có sự nhiệt tâm, sự hiểu biết (bằng trí tuệ), có (chánh) niệm, nếu (vị tỳ khưu đó) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian.>>

=> một vị tỳ khưu trú trên thân có sự theo dõi thân, có sự nhiệt tâm, sự hiểu biết (bằng trí tuệ), có (chánh) niệm, NẾU VẬY THÌ (vị tỳ khưu đó) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian;…(TP cảm ơn Ven Adhiṭṭhāna nhiều vì kiểu dịch này 🙂

Bài kinh nói rằng, một vị muốn niệm thân thì phải trú trên thân mà niệm, muốn niệm thọ thì phải trú trên thọ mà niệm,…và muốn sự niệm có hiệu quả thì phải có sự hiểu biết, có nhiệt tâm, làm miết như vậy thì loại bỏ được tham, ưu ở trên đời.

Hạnh TrươngVen Adhiṭṭhāna ơi, chữ Abhijjhā chiết tự thế nào mà nó ra thành THAM Sư nhỉ, cứu đi, hihi.

Abhijjhā (f.) [fr. abhi + dhyā (jhāyati),

dhyā này có liên quan gì tới từ THIỀN không Sư nhỉ

Ven Adhiṭṭhāna to ‎Hạnh Trương

căn dhyā này của Saṅkrit à nha, của Pāḷi là căn Jhā, căn jhā này có nghĩa là thiêu đốt, có lẽ đây là 1 cách chơi chữ khi ví abhijjhā (abhi +jhā) như là 1 sự đốt nóng, nói cách khác lửa tham.

Ven AdhiṭṭhānaHạnh Trương tại sao nó gọi là tham, vì trong chú giải của Dhammasaṅginī Aṭṭhakathā dùng chữ abhijjhāyati để diễn tả tính chất của abhijjhā như 1 lobha. 😀

Hạnh Trương

trời ơi, không chơi lôi chú giải ra dọa chứ, hihi
Jhā có phải là căn trong chữ jhāna không Sư nhỉ

Ven Adhiṭṭhāna

nếu hiểu abhijjhā theo nghĩa đen (về mặt từ ngữ) thì có thể dùng căn jhā trong chữ jhāyati sự thiêu đốt, để ví tham như 1 sự thiêu đốt.
nếu dùng chú giải dhammasaṅginī aṭṭhakathā thì abhijjhā được định nghĩa bằng từ abhijjhāyati.
Theo tự điển thì chữ Jhāyati – thiền tập, lại từ căn Jhe. Cái này cần phải coi lại 😀

Hạnh Trương Sư coi giùm thêm nha Sư 🙂 Không là HT hiểu nó là sự thiêu đốt tâm ưu một cách abhi đó, hihi

Ven Adhiṭṭhāna

cứ hiểu là lobha – tham là tốt nhất, còn cái vụ thiêu đốt chỉ là cách chơi chữ thôi :))

Hạnh Trương

Ủa , chữ nó khác mà sao mình lại cứ hiểu là lobha được ạ, hihi.

Thuận Pháp Dhammiko

Đức Phật chơi chữ kinh quá? Vì sao THAM được ví như sự thiêu đốt Ven Adhiṭṭhāna? Thường thì tham là muốn thêm, nắm giữ thêm; còn sân mới là thiêu đốt chứ!

Hạnh Trương

chữ thiêu đốt có từ bài kinh được nói cho các du sỹ của ngài Kasapa rồi, nhưng không lẽ dùng ở đó một lần là chỗ khác cũng phải hiểu thiêu đốt là tham 🙂

Thuận Pháp Dhammiko

Có thể đây là một từ khác mang nghĩa là Lobha thôi, như Paṭigha cũng mang nghĩa là Dosa vậy???

Ven Adhiṭṭhāna

nói đi nói lại quên nói chỗ này chữ abhijjhādomanassaṃ trong trường hợp này nên được hiểu là abhijjhā ca domanassaṃ ca

Hạnh Trương

Nói vậy chứ Ven Adhiṭṭhāna trích giùm chỗ chú giải đi nhé, nếu ở đó chú giải hợp lý thì ta nghe theo, không hợp lý thì ta đào tiếp, hihi. Còn bắt ép là nó là lobha thì ta không chịu 🙂

Ven Adhiṭṭhāna to ‎Hạnh Trương

cái này chắc phải đợi 2 vị này vô phụ tiếp quá Ven.Từ Minh, Ven. Tiểu Lâm

Hạnh Trương Xin nhị vị ra tay , hihi

Thuận Pháp Dhammiko

Chanhtrikien Nhanqua: <<Câu hỏi:
Nếu là độc lập: Vậy ta có thể luôn luôn quán tâm không? Không cần quán 3 cái còn lại?
Hay là có lúc ta quán tâm, có lúc ta quán thọ, có lúc ta quán thân, có lúc ta quán pháp?>>

+ Nếu một hành giả mới tu tập thiền, thì tốt nhất nên quán thân trước. Vì thân là cái dễ thấy nhất để mà theo dõi, ghi nhận. Phần thọ, tâm, pháp thuộc phần tinh thần rất khó thấy, khó ghi nhận.
+ Còn đ/v vị hành thiền thuần thục rồi thì ghi nhận cái nào trước cũng được trong 4 cái, miễn là dễ ghi nhận nhất.

Đó là nói đến NIỆM thôi, còn thực hành TỨ NIỆM XỨ như thế nào để loại trừ được tham, ưu vẫn còn dài dài, tốt nhất là tìm một vị thầy có kinh nghiệm hướng dẫn cho. Pháp hành của đức Phật có sự truyền thừa, không dễ gì mà tự học kinh điển rồi thực hành để đạt được kết quả tốt đẹp đâu!

Rama Bhik :

Bs Phạm Doãn tạo chủ đề này hay lắm. Rất nhiều từ, ngữ nghĩa trong bài kinh này đã được bàn luận trước kia. Ai đó có công sắp xếp những comments đó thì hay quá.

Tiểu Lâm

‎1/Yasmā panassa na kāyamatteyeva abhijjhādomanassaṃ pahīyati,
vedanādīsupi pahīyatiyeva,
tasmā ‘‘pañcapi upādānakkhandhā loko’’ti

2/Ayamevettha attho,
tasmiṃ loke abhijjhādomanassaṃ vineyyāti
evaṃ sambandho daṭṭhabbo.

Yasmā panettha abhijjhāgahaṇena kāmacchando, domanassaggahaṇena byāpādo saṅgahaṃ gacchati, tasmā nīvaraṇapariyāpannabalavadhamma-dvayadassanena nīvaraṇappahānaṃ vuttaṃ hotīti veditabbaṃ.

(Sutta Pi./Maj.Ni/Mula./Aṭṭhakatha)

TL chỉ có thể tìm và copy như vậy thôi. và cũng hiểu theo cách tra từ điển. kính!!

Rama Bhik Parasampattiṁ abhimukhaṁ jhāyatīti abhijjhā
Nghĩ tưởng về của cải người khác nên gọi là abhijjhā ( tham muốn)

jhāyati (v)nghĩ về, suy tưởng. jhāyati là liên tục nghĩ trên một đề mục duy nhất. Nếu tốt thì Chánh Thiền, nếu xấu là Tà Thiền. Định tâm trên sự khao khát vật sỡ hữu của người khác cũng là một thứ Định

Ven AdhiṭṭhānaRama Bhik kính xin đại đức cho biết nguồn gốc của câu Pāḷi trên

Rama Bhik

Dạ: ṭīkā / Vinayapiṭaka (ṭīkā) / Sāratthadīpanī-ṭīkā-1
Abhijjhābyāpādamicchādiṭṭhiyoti ettha parasampattiṃ abhimukhaṃ jhāyatīti abhijjhā, parasampattīsu lobho. Sā pana ‘‘aho vata idaṃ mamassā’’ti evaṃ parabhaṇḍābhijjhāyanalakkhaṇā. Adinnādānaṃ viya appasāvajjā mahāsāvajjā ca. Tassā dve sambhārā – parabhaṇḍaṃ, attano pariṇāmanañca. Parabhaṇḍavatthuke hi lobhe uppannepi na tāva kammapathabhedo hoti, yāva ‘‘aho vata idaṃ mamassā’’ti attano na pariṇāmeti.

Hạnh Trương

Nhờ các Sư nên đoạn đó có thể được hiểu rõ ràng rồi ạ, cảm ơn Sư Ven Adhiṭṭhāna, Sư Tiểu Lâm và Sư Rama Bhik nhiều ạ.

Hạnh Trương

Iti ajjhattaṃ vā kāye kāyānupassī viharati, bahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati, ajjhattabahiddhā vā kāye kāyānupassī viharati. Samudayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, vayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati, samudayavayadhammānupassī vā kāyasmiṃ viharati. “Atthi kāyo”ti vā panassa sati paccupaṭṭhitā hoti yāvadeva ñāṇamattāya paṭissatimattāya. Anissito ca viharati, na ca kiñci loke upādiyati. Evampi kho (Evampi – Sī, Syā, I) bhikkhave bhikkhu kāye kāyānupassī viharati.

Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân; hay vị ấy sống quán tánh sanh khởi trên thân; hay sống quán tánh diệt tận trên thân; hay sống quán tánh sanh diệt trên thân. Có thân đây, vị ấy an trú chánh niệm như vậy, với hy vọng hướng đến chánh trí, chánh niệm. Và vị ấy không nương tựa, không chấp trước vật gì trên đời. Này các Tỷ-kheo, như vậy là Tỷ-kheo sống quán thân trên thân.

Còn đoạn này chắc các Sư cũng đã nghiên cứu tới rồi, xin các Sư giúp tiếp ạ.

Hạnh Trương

HT thấy có mấy chỗ khó hiểu, đó là :
1. ajjhattaṃ và bahiddhā

2. Samudayadhammānupassī ; Vayadhammānupassī ; Samudayavayadhammānupassī

3. kāye và kāyasmiṃ (tại sao lại dùng 2 thể khác nhau của cùng 1 cách của từ kāya)

Phạm Doãn

Khi những điểm khó hiểu đã được hiểu rõ ràng, thì nhờ đạo hữu Hạnh Trương (hoặc admin nào đã tham gia thread này) tách thành Sub-Doc để tóm tắt công trình của mấy ngày vừa qua đi! Để giúp người không liên tục theo dõi thảo luận này, nắm bắt được những gì mới vừa được PLCĐ phát hiện!

Từ Minh

Hiểu 4 pháp (nhiệt tâm, có sự nhận biết, có niệm, có sự quán thân)
ngang nhau theo cấu trúc văn phạm như Ven Aditthana là một cách giải rất mới lạ. Thường trong những sách giải về bài kinh này, cũng như những vị thiền sư dạy: sự nhiệt tâm, có sự nhận biết, có niệm bổ trợ cho lối sống tu tập (quán thân).

– Còn một điểm nữa: ở phần ‘‘Katame cattāro? Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ, …
Ở đây đức Phật nói: ātāpī (có nhiệt tâm) sampajāno (có sự rỏ biết) satimā (có niệm) như 3 pháp hổ trợ cho vị sống quán thân (kāyānupassī).
Nhưng ở phần chi tiết về niệm hơi thở đức Phật lại dạy:
– So satova assasati, satova passasati. – Chỉ có niệm vị ấy thở ra, chỉ có niệm vị ấy thở vô; ở đây chỉ CÓ NIỆM (satova=sati+eva), mà không phải là ātāpī sampajāno satimā.
-Dīghaṃ vā assasanto ‘dīghaṃ assasāmī’ti pajānāti…,-và khi thở ra dài, vị ấy tuệ tri tôi thở ra dài…ở đây là TUỆ TRI (pajānāti) mà không phải là ātāpī sampajāno satimā.
-Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmī’ti sikkhati…,- vị ấy tập rằng: tôi sẽ thở ra có ý thức rõ toàn thân (hởi thở chặng đầu, giữa, cuối), ở đây là VỊ ẤY TẬP (sikkhati) mà không phải ātāpī sampajāno satimā.
– Không biết dụng ý đức Thế Tôn dùng từ ở đây như thế nào ? Hay satova, pajānāti và sikkhati mỗi pháp đều có 3 cái ātāpī sampajāno satimā ? Hay là đức Phật đi từ tổng quát ( ātāpī sampajāno satimā) rồi đến chi tiết hành trì (satova, rồi pajānāti rồi sikkhati)
Xin chư vị chia sẻ chỗ này.

Hạnh Trương

Theo HT, nếu xét tách riêng câu về thân thì thấy 4 pháp nó ngang nhau, nhưng khi xét chung trong đoạn văn giải thích về 4 niệm xứ, thì thấy rõ 3 pháp kia là bổ trợ cho 4 pháp chính ( 4 niệm xứ ).

Cũng vì vậy, như Sư Từ Minh đã nhận xét, 3 pháp đó là 3 pháp CĂN BẢN trong pháp hành, được trình bày tổng quát từ đầu và luôn có mặt ở các pháp chi tiết sau đó.

Ven Adhiṭṭhāna to Từ Minh

về mặt ngữ pháp thì 4 chi trên đều bổ nghĩa cho chữ Bhikkhu, ý nói nó ngang nhau là ngang nhau như vậy.

Idha, bhikkhave, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ
ở đoạn trên Đức Phật Ngài dùng từ rất rõ ràng như thế này: (Nếu) 1 vị tỳ khưu sống trên thân có sự dõi theo thân (kāyānupassī), có nhiệt tâm (atīpī), có sự rõ biết (sampajāno), có niệm (satimā)>>> (thì vị ấy sẽ có thể ) loại bỏ được tham ái và sân hận trên thế gian
_ Vấn đề được đặt ra : nhiệt tâm (ātīpī), rõ biết (sampajāno), chánh niệm (satimā) đã đủ hay chưa để cho đến kết quả tốt đẹp là sẽ có thể loại bỏ được tham ái (abhijjhā) và domanassa (sầu ưu)
Ở phần đoạn văn này, Đức Phật đưa ra điều kiên và kết quả (hãy đủ điều kiện đi cái đã :P)
Tiếp tục,
So satova assasati – Vị đó tỉnh giác thở vào – satova= sata + eva với sata bổ nghĩa cho chủ ngữ so
, satovapassasati – vị đó tỉnh giác thở ra
. Dīghaṃ vā assasanto “Dīghaṃ assasāmī”ti pajānāti, dīghaṃ vā passasanto “Dīghaṃ passasāmī”ti pajānāti – Trong khi đang thở vào dài, vị đó biết tôi đang thở vào dài, hay là trong khi đang thở ra dài vị đó biết tôi đang thở ra dài
. Rassaṃ vā assasanto “Rassaṃ assasāmī”ti pajānāti, rassaṃ vā passasanto “Rassaṃ passasāmī”ti pajānāti – Trong khi đang thở vào ngắn vị đó biết tôi đang thở vào ngắn, hay là trong khi thở ra ngắn vị đó biết tôi đang thở ra ngắn
. “Sabbakāyapaṭisaṃvedī assasissāmī”ti sikkhati, (vị đó) thực tập có sư cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vào
“Sabbakāyapaṭisaṃvedī passasissāmī”ti sikkhati (vị đó) thực tập có sư cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra
. “Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ assasissāmī”ti sikkhati, (vị đó) thực tập thân có được sự yên tịnh, tôi sẽ thở vào
“Passambhayaṃ kāyasaṅkhāraṃ passasissāmī”ti sikkhati. (vị đó) thực tập thân có được sự yên tịnh, tôi sẽ thở ra
Đệ mạo muội dịch lại phần này theo ý mình vì có những điểm sau đây:
Khi vị đó thực hành, sự tiến bộ theo từng bước, lúc đầu chỉ là sự nhận biết hơi thở vào ra >>> tiếp theo hơi thở dài ngắn >>> tiếp theo trước khi thở vào hay thở ra vị đó nhận biết được toàn thân >>> tiếp theo trước khi thở vào hay thở ra, vị đó lại xem thân mình đã yên tịnh hay chưa. Một chuỗi tiếp diễn quá trình thực hành như thế này đã đủ để gọi là satimā hay chưa ? 😀

Hạnh Trương

Tất nhiên là chưa Sư ạ, Nhiệt tâm làm cái gì, rõ biết cái gì, Niệm đặt ở đâu? Không thể tách chúng riêng khỏi việc quán thân, hoặc quán thọ, hoặc quán tâm, hoặc quán pháp.

Ven Adhiṭṭhāna ‎to Từ Minh

thỉnh sư huynh cho thêm ý kiến!

Ven Adhiṭṭhāna

hồi nãy đang type chưa hết bấm nhầm enter 😛

Hạnh Trương

Cái chỗ tập luyện, sikkhati nó hơi đặc biệt đó nha Sư, có lẽ phải coi thêm về thiết lập niệm và lưu ý thì tương lai …tôi sẽ thở ra.

Từ Minh

Ven Adhiṭṭhāna Ba pháp như cái kiềng ba chân bổ trợ cho nhau, thiếu một chân cái kiềng sẽ không đứng được, trong pháp hành cũng thế, nhiệt tâm (ātāpī) sẽ hổ trợ cho chánh niệm (satimā) trên đối tượng và rõ biết (sampajāno) làm cho đề mục rõ ràng không lầm lẫn. Ở cấp độ thấp 3 pháp này có thể loại bỏ tham ái, sầu ưu, và cả si mê ngay lúc tu tập, khi tuệ minh sát (16 tuệ vipassanā paññā) phát triển sẽ loại bỏ chúng một cách hoàn toàn.

Hoa Nguyen

Trong Bát Chánh đạo, Tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định được xếp vào nhóm Định. Hành giả (thiền) phải có đủ ba yếu tố trên.

Hoa Nguyen Nhưng vẫn còn thiếu Tín tâm ở pháp hành. Nếu có đủ Tín, Tấn, Niệm và Định thì đối trị được các triền cái.

Thich Nu Nguyen Huong

Hiếu Nguyễn: Trong tác phẩm Thanh Tịnh Đạo Luận( Visuddhi-Magga) của Ngài Buddhaghosa, có phân loại 40 đối tượng thiền thích ứng với 6 lọai cá tánh (tâm). Trong đó, pháp môn niệm hơi thở rất thích hợp cho hạng người có tánh si (delusion) và tư duy (thought, thinking) nhiều!

Hoa Nguyen

Trong Tín, Tấn, Niệm , Định nêu ở trên thì Định muốn nói với nghĩa là Nhất tâm (hay Nhất hành tâm), khônng phải nói trạng thái Định của Tứ Thiền.

Thich Nu Nguyen Huong

Hiếu Nguyễn: Theo kinh nghiệm thực hành của NH. về pháp môn Tứ Niệm Xứ với 16 đề tài: Thân, Thọ, Tâm, Pháp thì NH phát hiện ra một điều như vầy: có một sự khác biệt nhỏ về ý nghĩa giữa cụm từ Rõ biết (có nơi dịch là Tuệ tri) trong câu: Thở vô dài, tôi rõ biết tôi thở vô dài; thở ra dài, tôi rõ biết tôi thở ra dài; Thở vô ngắn, tôi rõ biết … với từ Tập (có nơi dịch là luyện tập) trong câu: An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô vị ấy tập; An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra vị ấy tập, hay với câu: Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô, vị ấy tập…. Phần 1: Khi ngồi thiền, dù bất cứ ai, mình đều có một điều giống nhau là không cần phải nổ lực luyện tập với một phương pháp nào đó để có được hơi thở vô và ra. Hơi thở của mình đi vào, hết đà nó tự nhiên đi ra, ở giai đoạn này, nhiệm vụ của mình chỉ có bổn phận là rõ biết, ghi nhận mà thôi. Sau khi hoàn tất giai đoạn một rõ biết hơi thở vô ra với tâm không tán loạn, NH. chuyển qua giai đoạn khác. Ví dụ, ở giai đoạn An tịnh thân hành, tôi tôi sẽ thở vô, vị ấy tập, thật sự lúc đầu trong giai đoạn đó, NH. không có cảm giác thân mình an tịnh chút nào. Nhưng khi NH. để tâm rõ biết thân mình không an tịnh trong vài hơi thở vô ra thì NH. có được cảm giác thân mình an tịnh thật sự. Trong giai đoạn này, NH. tập đi tập lại nhiều lần trong trạng thái có thân an tịnh. Cũng tương tự như thế đối với giai đoạn Với tâm hân hoan tôi sẽ thở vô, vị ấy tập…. Ban đầu, NH. cũng không có trạng thái tâm hân hoan, nhưng NH. phải tác ý, rõ biết tâm mình thật sự đang không có cảm giác đó trong khi thở vô và thở ra, và NH đã phải lặp đi lặp lại nhiều lần, rồi trạng thái tâm hân hoan xuất hiện… Như vậy, theo kinh nghiệm của NH, về phạm trù Thân và Tâm qua thực hành của mình với Tứ niệm xứ như vùa nói ở trên là có sự khác biệt khi đoạn kinh trên đã dùng từ Rõ biết hay Tuệ Tri với từ Tập hay Luyện tập! Đây là phần nhận định theo kinh nghiệm cá nhân tu tập của NH.khi thực hành Niệm hơi thở vô ra với 16 đề tài: Thân, thọ, tâm, pháp!

Hạnh Trương Chỗ này mình cần lưu ý thêm, tại sao đức Phật dùng từ ở thì tương lai [ làm cái việc abc tôi SẼ THỞ (vào, ra) vị ấy tập], thì nó sẽ rõ ý nghĩa của pháp hành. Tại sao lại là SẼ mà không phải là ĐANG, Niệm trong phần này được thiết lập như thế nào? ở đâu? trên đối tượng nào?

Hoa Nguyen Quán thân trên thân (theo TNX, Trung Bộ): trú niệm chỉ tại thân khi quán sát thân, hay trú trên thân (khi) có sự theo dõi thân (theo một cách dịch của sư Adhiṭṭhāna) .

Quán thân như thân (theo TNX, Trung A-hàm): quán thân chỉ như là thân, chứ không là cái gì khác (không để xen lẫn cảm thọ, suy tưởng), không kèm theo các khái niệm như (thân) đàn ông, đàn bà, hay (thân) ngã, chúng sinh.

Hoa Nguyen Trên tôi tìm hiểu ý nghĩa khác hay giống nhau của hai cách nói trên (thân) và như (thân) trong hai bản kinh. Thật ra, trong kinh Niệm xứ của Trung A-hàm, thường lập lại ở từng đoạn kinh các câu lập niệm tại thân , lập niệm tại thọ, lập niệm tại tâm, lập niệm tại pháp. Giống như cách nói trú niệm trên thân, trên thọ, trên tâm, trên pháp khi quán niệm của kinh Trung Bộ.

Từ Minh

Trong Đại Niệm Xứ của ngài Silananda-Tk Khánh Hỷ dịch có đoạn giải thích tại sao Đức Phật dùng thì tương lai:

Bạn cần phải chú ý đến thể tương lai trong nguyên bản Paa.li của đoạn văn này. Thể tương lai ở đoạn văn này cho thấy rằng trong việc quán sát hơi thở trước đây bạn không cần nhiều trí tuệ, nhiều tinh tấn để phân biệt giữa hơi thở dài và hơi thở ngắn, nhưng bắt đầu từ đây bạn phải có nhiều nỗ lực để đạt trí tuệ, để thấy hơi thở một cách rõ ràng và trọn vẹn. Trong bản Paa.li, thể tương lai cũng được dùng ở các đoạn sau. (xin xem thêm ở Budsas…)

Hoa Nguyen Chúng ta đang dùng kinh Đại Niệm xứ để tìm hiểu thêm kinh Tứ Niệm xứ. Nhưng rất có thể kinh Đại Niệm xứ được thành hình sau kinh Tứ Niệm xứ (cũng gọi kinh Niệm xứ), nghĩa là kinh này (ĐNX) dành cho trình độ tu tập cao hơn, sau khi đã qua giai đoạn tu tập theo Tứ Niệm xứ. Thí du, kinh Quán niệm hơi thở (Nhập tức xuất tức) không dùng tới từ “tuệ tri” khi theo dõi hơi thở ra vào như trong kinh Tứ Niệm xứ. Điều đó cho phép suy đoán phải / nên tu tập quán Niệm hơi thở (để có chút “tuệ tri”) trước khi tu tập Tứ Niệm xứ.

Nhân đây ,”tuệ tri” (bản dịch ở Pali) được kinh Niệm xứ (Sanskrit) của Trung A-hàm có chỗ dịch là “biết đúng như thật”, như vậy là đã có chút thành tựu trong hành thiền.

Hạnh Trương Toàn bộ các đoạn liên quan tới quán hơi thở ở các bài kinh tương ứng trong Pali đều dùng thống nhất một từ là Pajānāti (tuệ tri, biết rõ, nhận biết) ở hai đề mục đầu anh ạ.
Sự khác biệt chỉ ở bản dịch thôi ạ.

Hoa Nguyen Có thể từ ngữ (tuệ tri) trong câu trên dùng không đúng với nghĩa của tuệ tri mà (thiền) Phật giáo thường hiểu, trừ khi thợ quay đó cũng là thiền sư.

Hoa Nguyen Trong kinh Quán niệm hơi thở (kinh nhập tức xuất tức niệm),
HT Minh Châu dịch: Thở vô dài, vị ấy biết: “Tôi thở vô dài”. Hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài
Sư Indacanda dịch: Hoặc trong khi thở ra dài, vị ấy nhận biết:[5] ‘Tôi thở ra dài.’
Hoặc trong khi thở vào dài, vị ấy nhận biết: ‘Tôi thở vào dài.’
[5] Chú ý đến từ “hoặc” (từ Pali là ‘vā’) ở đầu câu và động từ “nhận biết” (pajānāti) trong nhóm 4 câu này.

Pajanati là tuệ tri nhưng được dịch là “biết” (HT Minh Châu), hay “nhận biết” (Sư Indacanda). Dịch như thế là không quá lệ thuộc vào từ gốc Pali có thể có nhiều nghĩa tuỳ ngữ cảnh. Điều này như phù hợp với một cách đọc kinh “y nghĩa bất y ngữ” (dựa vào nghĩa của lời kinh, không dựa vào từng chữ).

Hạnh Trương <<Có thể từ ngữ (tuệ tri) trong câu trên dùng không đúng với nghĩa của tuệ tri mà (thiền) Phật giáo thường hiểu, trừ khi thợ quay đó cũng là thiền sư>>
Chắc là mấy vị thiền sư mà anh Hoa Nguyen nhắc tới là thiền sư hiện đại, chứ theo ví dụ đó thì việc tuệ tri là việc ai cũng làm được, kể cả người thợ dệt, hoặc anh nông dân, hoặc đứa trẻ con nằm ngửa mặt ngắm cò bay ….

Nếu không dễ làm thì Phật đã chẳng nói là “thở ra dài, vị ấy tuệ tri “tôi thở ra dài”…”

Hoa Nguyen Tôi cho là không dễ như anh Hạnh Trương nghĩ khi tuệ tri hơi thở ra, vào. Có người đã viết ở đây, nếu theo dõi được phần đầu, thì không được phần cuối, hay phần giữa hơi thở. Như vậy không thể gọi là tuệ tri, theo nghĩa biết rất rõ, biết đúng như thật là. Có lẽ vì khó tuệ tri được như vậy, nên HT Minh Châu và Sư Indacanda chọn cách theo dõi dễ thực hiện hơn, là “biết” hay “nhận biết” (được hơi thở ra vào).

Hạnh Trương Vậy thì mình phải xem cái nghĩa biết rõ, biết đúng như thật có phải là tuệ tri không ạ. Nhiều khi tuệ tri nó giản dị hơn nhiều. Chứ nó khó thế thì đã có nó rồi còn đi “thở ra dài, vị ấy tuệ tri “tôi thở ra dài”” làm gì nữa ạ.

Hoa Nguyen Biết rõ một hơi thở từ lúc nó bắt đầu chạm đầu mũi cho đến khi chấm dứt, là biết nó rất rõ, đúng như thật, nên gọi được là tuệ tri. Còn khó hay dễ phải nói lại tuỳ người thôi.

Phạm Doãn
Sự thích hợp giữa CĂN TÁNH với Niệm Xứ (lãnh vực để thực hành Niệm)
Trong thiền minh sát (vipassana) chỉ phân biệt bốn hạng căn tánh :
1. Tánh tham ái + tuệ mạnh (ở đây dùng người học nhanh-fast learner)
– đề mục thiền vi tế trên CẢM THỌ là con đường để thanh tịnh.
2. Tánh tham ái + tuệ yếu (người học chậm-slow learner)
– quán THÂN VẬT LÝ THÔ là con đường để thanh tịnh

3. Tánh [tà] kiến (diṭṭhicarita) + tuệ mạnh
– đề mục thiền có nhiều sự phân biệt, đó là quán PHÁP là con đường để thanh tịnh.

4. Tánh [tà] kiến (diṭṭhicarita) + tuệ yếu.
– con đường để thanh tịnh là thiết lập niệm qua một đề mục thiền không quá nhiều sự phân biệt, đó là quán TÂM.
(Thông tin từ sách Đại Niệm Xứ Giảng Giải- Sayadaw Pa Auk)

Phạm Doãn Trong thiền định, căn tánh (carita, cariyā), hay khuynh hướng nội tâm của mỗi chúng sinh, được phân ra sáu loại:
1. Tánh tham (rāgacarita)
2. Tánh sân (dosacarita)
3. Tánh si (mohacarita)
4. Tánh tín (saddhācarita)
5. Tánh trí (buddhacarita, ñāṇacarita)
6. Tánh tầm (vitakkacārita).
Tham khảo thêm :
http://www.budsas.org/uni/u-thientue/21.htm

Tim hieu Phap Hanh Thien Tue – 2.1

www.budsas.org

Pháp hành thiền định là pháp hành làm cho tâm an trú trong một đề mụ…See More

Phạm Doãn Bản kinh Niệm Xứ của TRUNG A HÀM (Đại Thừa)
Có nhiều đoạn khác biệt với bản Kinh Niệm Xứ của Trung Bộ (Nguyên Thủy)
Ví dụ:

– Nói đến kỹ thuật “răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ.”
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như hai lực sĩ bắt một người yếu mang đi khắp nơi, tự do đánh đập. Cũng vậy, Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ….”
(Kinh Tứ Niệm Xứ bản Pali không nói đến điều này)

– Nói đến yếu tố của “Định” khi thực hiện pháp Quán

“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo có hỷ lạc do định sanh, nhuần thấm thân, phổ biến sung mãn; khắp trong thân thể, hỷ lạc do định sanh không đâu không có. Cũng như suối trên núi, trong sạch không dơ, nước từ bốn phương chảy đến đổ vào một cách tự nhiên, tức thì từ đáy suối, nước tự vọt lên, chảy tràn ra ngoài, thấm ướt cả núi, phổ biến sung mãn, không đâu không có. Cũng vậy, Tỳ-kheo có hỷ lạc do định sanh thấm nhuần thân, phổ biến sung mãn; khắp trong thân thể, hỷ lạc do định không đâu không có. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như thân…”
(Phần đầu kinh Niệm Xứ bản Pali, nói đến năng lực của “Tuệ Tri- pajānāti”. Phần sau, từ đoạn Quán niệm bốn sự thực (Từ Diệu Đế) có nói đến năng lực của “Như Thật Tuệ Tri”- yathābhūtam)

– Nói đến một pháp quán gọi là “Niệm Quang Minh Tưởng”

“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; là Tỳ-kheo niệm quang minh tưởng, khéo thọ khéo trì, nhớ rõ điều niệm; như phía trước, phía sau cũng vậy; ngày cũng như đêm, đêm cũng như ngày; dưới cũng như trên, trên cũng như dưới. Như vậy tâm không điên đảo, tâm không bị ràng buộc, tâm tự quang minh, không khi nào còn bị bóng đen che lấp. Tỳ-kheo như vậy, quán nội thân như thân; quán ngoại thân như thân; lập niệm tại thân, có tri, có kiến, có minh, có đạt. Như vậy gọi là Tỳ-kheo quán thân như than”
(Kinh Tứ Niệm Xứ Pali không nói đến “niệm quang minh tưởng” hay sự sử dụng năng lực của “Tưởng Tri, sañjānāti”)

Hoa Nguyen ‎”Tưởng Tri”, “Ức chế tâm” (đè nén tâm) là từ riêng của TL Thông Lạc dùng để chỉ trích nhiều loại thiền định. Có một lần tôi dẫn chứng kinh Nguyên Thủy để thấy Phật dạy “tưởng” có mặt từ Sơ thiền tới Phi tưởng phi phi tưởng định, nhưng giảm dần và chấm dứt ở Diệt Thọ Tưởng định. Để ý cái tên “Diệt Thọ (và) Tưởng”, tức tận diệt cà Thọ và Tưởng lúc đó, nhưng phải tới mức thiền định cao của A la hán và Phật mới làm được. Như lý tác ý là một loại ” tưởng tri” mà tâm lý học hiện đại gọi là tự kỷ ám thị ( nếu bảo là xấu thì cho đó là hình thức tự thôi miên). Tợ tướng của thiền an chỉ là do tưởng sinh ra (theo Thanh tịnh đạo, và cả Vi Diệu pháp). Không phải cái gì do Tưởng sinh là đều là xấu, chỉ là phương tiện tập trung tâm, nhưng phải biết giảm dần mức độ tưởng để thắng tri, tuệ tri xuất hiện, thay thế. Đó là phương tiện, chặng đường phải theo. Nên thấy Thanh tịnh đạo dạy thiền An chỉ bằng nhìn chăm chú đĩa đất sét (biến xứ, kasina) để đi tới tợ tướng là tưởng sinh. Là tưởng sinh, chớ không phải tưởng tri. Các pháp thiền quán tưởng của Mật tông đương nhiên sử dụng nhiều khả năng của tưởng uẩn, và sau đó vượt qua. Quán bất tịnh, quán xác chết tan rã cũng dựa vào khả năng của tưởng (nhưng thành tựu là khi thấy rõ như thật). Niệm quang minh tưởng được kinh Trung A-hàm kể nhiều lần trong đó hai lần tôi đọc thấy khi mô tả Phật nằm theo thế gọi là sư tử. Kinh không mô tả nhiều về quang minh tưởng (chì nói tưởng ánh sáng).
Anh Phạm Doãn cũng có chỗ nói tập trung tâm ý của An Chỉ là đặt tâm lên một điểm thật nhỏ. Điều này cũng không nhất định là vậy, như khi hành giả đạt tâm lên một cái đĩa đất sét, hay chọn kasina là nước (của mặt hồ). Thanh tịnh đạo viết người tâm loạn tưởng nhiều thì dùng cái đĩa nhỏ hơn thôi. Và khi đã thấy được tợ tướng thì sẽ có lúc làm cho nó lớn lên (dần) để thành rộng lớn như trái đất hay hơn nữa (bao trùm cả vũ trụ). Tóm lại, nên đọc thêm các sách thiền An Chỉ của Phật giáo để biết rõ hơn.

Hoa Nguyen Trên tôi muốn nói kinh Potthapàda (Trường bộ kinh).
Trong phần đầu của Kinh Potthapàda, đức Phật dạy:

– tại cấp Sơ-thiền, trong trạng-thái hỷ-lạc do ly-dục sanh, lìa được các dục-tưởng xưa kia và làm khởi sanh lên tưởng hỷ-lạc do ly-dục;

– tại cấp Nhị-thiền, trong trạng-thái hỷ-lạc do định sanh, lià được các tưởng do ly dục sanh trước kia, và làm khởi sanh lên tưởng hỷ-lạc do định;

– tại cấp Tam-thiền, tưởng hỷ-lạc diệt và tưởng ”xả-niệm lạc-trú” sanh;

– tại cấp Tứ-thiền, tưởng xả-niệm lạc-trú diệt, tưởng ”xả-niệm thanh-tịnh” sanh;

– tại cấp Không vô-biên-xứ định, tưởng xả-niệm thanh-tịnh diệt, tưởng Không vô-biên xứ sanh;

– tại cấp Thức vô-biên-xứ định, tưởng hư-không diệt, tưởng Thức vô-biên xứ sanh;

– tại cấp Vô-sở-hữu-xứ định, tưởng thức vô-biên diệt, tưởng Vô-sở-hữu xứ sanh;

– tại cấp Phi-tưởng, phi phi-tưởng định, tưởng vô-sở-hữu diệt, tưởng phi-tưởng phi phi-tưởng sanh;

– tại cấp Diệt-thọ-tưởng định, tiếp-tục đi từ tưởng nầy đến tưởng khác cho đến tưởng tột đỉnh, rồi diệt luôn tưởng đó, chấm dứt hẳn mọi tưởng.

Hạnh Trương anh Hoa Nguyen nói Như Lý Tác Ý là một loại tưởng tri và là tự kỷ ám thị thì không như trong Kinh Điển đâu ạ.

Tiếc là TL Thông Lạc hiểu từ Như Lý Tác Ý cũng không theo Kinh Điển, nên khiến anh Hoa Nguyễn cũng hiểu sai theo.

Tác Ý mà TL Thông Lạc dùng để dạy học trò, trong kinh nó là cittuppāda: (citta + uppāda) : sự khởi tâm, sự phát tâm.

Còn yoniso manasikara, được dịch là Như Lý Tác Ý và có vai trò quan trọng, được đề cập trong Kinh Tất Cả Các Lậu Hoặc thì nó có ý khác, PLCD đã có bàn về vấn đề này khá kỹ (tuy chưa xong)

Hoa Nguyen Tôi chắc chắn TL Thông Lạc đã từng dùng nhiều lần từ “Như Lý tác ý’. Chanhphatphap Nguyenthuy nên dẫn chứng. Chỗ nguy hiểm của học Phật ở đây là lẫn lộn tư tưởng chỗ này với tư tưởng chỗ khác, có khi do cố ý.
Khi chưa có tâm từ bi để đối trị sân hận thì “như lý tác ý” tâm từ. Hay trong kinh Niệm xứ: Với tâm an định tôi thở ra, thở vào , đều là những thí dụ về Tưởng.

Hạnh Trương Anh chắc chắn làm gì, đúng vậy mà 🙂 TL Thông Lạc dùng từ đó không đúng. Anh đọc kỹ lại comment của em.

Vấn đề là anh cũng dùng từ đó, và như vậy sẽ khiến nhiều người nghĩ như lý tác ý quả là có vai trò như vậy, và đây mới là nguy hiểm.

Chỗ mà Thầy Thông Lạc dùng là (Như Lý Tác Ý) thì nên hiểu là Khởi Tâm, Phát Tâm ( cho nó đúng với kinh điển).

Còn nếu học trò của Thầy hiểu Tác Ý theo ý đó thì pháp hành của họ vẫn hiệu quả, có điều họ mà đọc kinh thì sẽ bị rối, vậy thôi ạ

Hạnh Trương BS Phạm Doãn <<- Nói đến kỹ thuật “răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ.”
“Lại nữa, Tỳ-kheo quán thân như thân; Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ. Như hai lực sĩ bắt một người yếu mang đi khắp nơi, tự do đánh đập. Cũng vậy, Tỳ-kheo răng ngậm khít lại, lưỡi ấn lên khẩu cái, dùng tâm trị tâm, đối trị, đoạn trừ, tiêu diệt, tĩnh chỉ….>>

Kỹ thuật này có trong kinh điển Pali, gặp ở giai đoạn cuối trong việc đối trị bất thiện tầm, ( bài kinh MN20. An Trú Tầm )

Dantebhidantamādhāya jivhāya tāluṃ āhacca cetasā cittaṃ abhiniggaṇhato abhinippīḷayato abhisantāpayato ye pāpakā akusalā vitakkā chandūpasaṃhitāpi dosūpasaṃhitāpi mohūpasaṃhitāpi, te pahīyanti te abbhatthaṃ gacchanti, tesaṃ pahānā ajjhattameva cittaṃ santiṭṭhati sannisīdati ekodi hoti samādhiyati.
Tỷ-kheo ấy nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, các ác, bất thiện tầm liên hệ đến dục, liên hệ đến sân, liên hệ đến si được trừ diệt, đi đến diệt vong. Chính nhờ diệt trừ chúng, nội tâm được an trú, an tịnh, nhất tâm, định tĩnh.

Hoa Nguyen Tôi quan tâm đoạn trích trên của anh HT về “nghiến răng”. Đọc nhiều sách thiền ngày nay, thỉnh thoảng tôi đọc thấy mô tả lúc tọa thiền lưỡi đặt như vậy, nhưng vẫn ngờ tính hiệu quả hay ích lợi của nó. Có khi cho là của thuật luyện khí công của đạo gia TQ (uốn cong lưỡi để sinh nhiều nước bọt). Nhưng nay thì hoàn toàn tin là đã có dạy từ rất xa xưa trong Phật giáo Nguyên thủy để đối trị tâm bất thiện (loại mạnh). Bản thân có kinh nghiệm là khi thiền, nếu một ý, hình ảnh tham dục chợt khởi lên, dùng phướng pháp này đối trị có kết quả rất nhanh.

Karmalaw Net Tại sao để lưỡi sát vào nứu răng trên? Vì như thế miệng sẽ bị khóa lại như cái khóa chân không vậy đó, nên nó sẽ ko bị…hả ra khi vào …ngủ thiền.

Hoa Nguyen Trong bản kinh Niệm xứ do HT Minh Châu dịch, có hai chỗ tôi phân vân về nghĩa do nhiều cách giải thích khác nhau. Xin nêu lên với mục đích tìm hiểu nghĩa chính xác nhất:
1/ Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập”.
Bản dịch như thế phải hiểu “toàn thân” là toàn thân thể hành giả.
Nhưng tôi nhớ thầy Nhất Hạnh giảng giải là “toàn thân hơi thở”, và có thể trích dẫn lời giảng của Thiền sư U Silananda trong kinh Đại Niệm xứ (Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt”:
Lời kinh:
“Nhận thức rõ toàn thể hơi thở vào”, (khởi đầu, kéo dài và chấm dứt) tôi sẽ thở vào, thầy tỳ khưu tinh tấn như vậy (nghĩa là thầy tỳ khưu tự huấn luyện như vậy). “Nhận thức rõ toàn thể hơi thở ra” (khởi đầu, kéo dài và chấm dứt), tôi sẽ thở ra, thầy tỳ khưu tinh tấn như vậy.

Phần giảng giải: “Khi quán sát hơi thở bạn phải cố gắng để thấy rõ ràng toàn thể hơi thở. Nhận thức rõ ràng có nghĩa là biết được hơi thở, biết trọn vẹn, cố gắng ý thức được hơi thở một cách sắc bén. Nhóm chữ “toàn thể hơi thở” tiếng Paa.li là: “Sabbakaaya” nghĩa là toàn thể cơ thể hay toàn thân (sabba: toàn thể; kaaya: cơ thể hay thân). Nhưng Kaaya (cơ thể) ở đây không có nghĩa là toàn thể cơ thể của thiền sinh mà là toàn thể hơi thở. Như vậy, “Sabbakaaya” ở đây có nghĩa là toàn thể hơi thở. Theo tiếng Paa.li thì chữ Kaaya có thể có nghĩa là cơ thể hay một nhóm. Giống như trường hợp bạn nói đến nhóm hội viên hay toàn thể hội viên vậy. Ở đây, Sabbakaaya không có nghĩa là toàn thể cơ thể vật chất, mà là toàn thể hơi thở, và “toàn thể” ở đây có nghĩa là sự khởi đầu, kéo dài và chấm dứt ” (Hết trích)

2/ Trích kinh: ” Như vậy, vị ấy sống quán thân trên nội thân hay sống quán thân trên ngoại thân; hay sống quán thân trên cả nội thân, ngoại thân;”
Đọc lời kinh trên có thể hiểu là phần thân thể bên trong (nội thân), và phần thân thể bên ngoài (ngoại thân).
Nhưng Thiền sư U Silananda giải thích nôi thân là thân thể của chính mình, và ngoại thân là thân thể của người khác.
Trích kinh (Đại Niệm xứ): “Như vậy, tỳ khưu quán sát thân trong nội thân hay tỳ khưu quán sát thân trong ngoại thân hay tỳ khưu quán sát thân trong nội thân và ngoại thân”

Giảng giải của Thiền sư U Silananda”:
“Thế nào là “quán sát thân trong nội thân”? Câu này có nghĩa là thiền sinh quán sát hay ghi nhận hơi thở vào và hơi thở ra của mình. Khi thiền sinh chú tâm trên hơi thở của mình thì được gọi là quán sát thân trong nội thân. Khi thiền sinh đã đạt được một số tiến bộ trong việc chú tâm vào hơi thở của chính mình, bỗng nhiên thiền sinh nghĩ đến hơi thở của người khác và tự nhủ: “Hơi thở của ta có điểm khởi đầu và điểm chấm dứt, sinh và diệt, thì hơi thở của người khác cũng vậy”. Ðó là thiền sinh đã “quán sát thân trong ngoại thân”.”
Câu “Quán sát thân trong ngoại thân” chỉ có nghĩa là trong khi quán sát hơi thở mình bỗng nhiên “nghĩ” đến hơi thở của người khác chứ không có nghĩa là “nhìn” vào người khác và quán sát hơi thở của họ. Tuy nhiên khi bỗng nhiên quán sát hơi thở của người khác thì bạn cũng phải chánh niệm nữa. (Hết trích)

Tôi thấy cần hiểu đúng nghĩa của “toàn thân” và “nội thân” với “ngoại thân” trong kinh Tứ Niệm xứ, vì hai cách hiểu khác nhau sẽ dẫn tới hai cách tu tập khác nhau.

August 6 at 9:25pm · Like · 2

Hạnh Trương Ở một Post khác có comment của bạn Nguyen Ba Thanh nói về quan điểm của Thầy Thông Lạc về tứ niệm xứ.

<<(Thầy Thông Lạc xem TNX là 4 trụ xứ, 4 nơi để đặt các pháp tu lên đó mà tu tập>>

Anh Hoa Nguyen thì nói : <<5/ Tứ Niệm xứ có ý nghĩa là đặt hay hướng niệm (hay tâm) ở 4 chỗ để thấy biết rõ thực tại như thật. Không thể hiểu là trụ xứ của tâm, hay chỗ đặt pháp tu lên đó. Đây là cách tôi hiểu.>>

Đây là một vấn đề khá thú vị, có khi qua đó mà lộ ra được ý “Con đường độc nhất” thực sự là gì chăng?

Các đạo hữu có ý kiến gì về vấn đề này không ạ

Pāli Việt CÓ ĐOAN NÀY HAY, MỜI XEM:
Trước khi vào 16 phần về hơi thở, còn có câu Pali này:
– “So satova assasati, satova (Sato – Sī, Syā) passasati.” = Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh giác, vị ấy thở ra. (HT. MC) = Có niệm vị ấy thở ra, có niệm vị ấy thở vào. (Tk. Indacanda).

– Và chữ SATO (tỉnh giác – có niệm) này được Mahāniddesa giải thích như sau:
“CÓ NIỆM:

— Có niệm do bốn nguyên nhân:

Có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát thân ở thân, —như trên— ở các thọ, —như trên— ở tâm, có niệm trong khi tu tập sự thiết lập niệm ở việc quan sát pháp ở các pháp.

— Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác:

Có niệm do xa lánh thất niệm,

có niệm do trạng thái đã thực hành các pháp cần phải thực hành đối với niệm,

có niệm do trạng thái đã tiêu diệt các pháp đối nghịch với niệm,

có niệm do trạng thái không lơ là đối với các pháp ấn chứng của niệm.

— Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác:

có niệm do trạng thái đã thành tựu về niệm,

có niệm do trạng thái đã trú ở niệm,

có niệm do trạng thái quen thuộc với niệm,

có niệm do trạng thái không thối thất đối với niệm.

— Hơn nữa, có niệm còn do bốn nguyên nhân khác:

có niệm do trạng thái tự tại,

có niệm do trạng thái an tịnh,

có niệm do trạng thái tĩnh lặng,

có niệm do trạng thái đã thành tựu pháp của bậc chân nhân.

Có niệm do tùy niệm Phật,

có niệm do tùy niệm Pháp,

có niệm do tùy niệm Tăng,

có niệm do tùy niệm giới,

có niệm do tùy niệm xả thí,

có niệm do tùy niệm Thiên,

có niệm do niệm hơi thở vào – hơi thở ra,

có niệm do tùy niệm sự chết,

có niệm do niệm đặt ở thân,

có niệm do tùy niệm Niết Bàn.

— Niệm là tùy niệm, niệm hiện tiền; niệm là sự nương tựa, sự ghi nhận, sự thâm nhập, sự không lơ là;

— niệm là niệm quyền, niệm lực, chánh niệm;

niệm là niệm giác chi, con đường độc đạo; điều này gọi là niệm.

Người đã tiến đến, đã tiến gần, đã tiến vào, đã tiến sát, đã tiếp cận, đã tròn đủ, đã thành tựu nhờ vào niệm này, người ấy được gọi là có niệm.”

Pāli Việt Phần Pali văn:
Sato ti – catuhi kāraṇehi sato: kāye kāyānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato; vedanāsu – citte – dhammesu dhammānupassanāsatipaṭṭhānaṃ bhāvento sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: asatiparivajjanāya sato, satikaraṇīyānañca dhammānaṃ katattā sato, satipaṭipakkhānaṃ dhammānaṃ hatattā sato, satinimittānaṃ dhammānaṃ asammuṭṭhattā sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: satiyā samannāgatattā sato, satiyā vasitattā sato, satiyā pāguññatāya sato, satiyā apaccoropanatāya sato. Aparehipi catuhi kāraṇehi sato: sattattā sato, santattā sato, samitattā sato, santadhammasamannāgatattā sato. Buddhānussatiyā sato, dhammānussatiyā sato, saṅghānussatiyā sato, sīlānussatiyā sato, cāgānussatiyā sato, devatānussatiyā sato, ānāpānasatiyā sato, maraṇānussatiyā sato, kāyagatāsatiyā sato, upasamānussatiyā sato ’ti. Yā sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati satisambojjhaṅgo ekāyanamaggo, ayaṃ vuccati sati. Imāya satiyā upeto hoti samupeto upagato samupagato upapanno samupapanno samannāgato, so vuccati sato.

Phạm Doãn Mọi người ơi! Sư Pāli Việt đã quay lại “hà hơi tiếp sức” cho PLCĐ rồi đó. Chúng con mong cho sư sức khỏe luôn ổn định!

Nguyen Thi Viet Huong

Đề tài này đã được thảo luận lâu rồi, vh mới vào và xin góp ý (chắc là được phép ạ ?)
Ở chỗ „cảm giác toàn thân“ là toàn thân hơi thở hay toàn thân thể ?
Theo kinh nghiệm vh thì ở giai đoạn này khoảng cách từ hơi thở vào chạm của mũi cho đến hơi thở ra chạm cửa mũi nó rất dài, có thể nửa giờ hoặc hơn nữa. Vì thế cảm giác toàn thân của hơi thở lúc đó cũng là cảm giác của toàn thân thể. Niệm lúc ấy đã vững, thoải mái & không rời điểm xúc chạm ở cửa mũi, nhưng tỉnh giác được hơi thở lan tỏa toàn thân. Thoạt tiên vh cũng có tâm chờ cái xúc chạm của hơi thở ra ở cửa mũi, nhưng rồi niệm lực lúc ấy rõ ràng có lực, nó vẫn trú ở cửa mũi & tỉnh giác hơi thở lan khắp toàn thân.
Vài dòng góp ý. kính

Thuận Pháp Dhammiko   @Nguyen Thi Viet Huong: <Theo kinh nghiệm vh thì ở giai đoạn này khoảng cách từ hơi thở vào chạm của mũi cho đến hơi thở ra chạm cửa mũi nó rất dài, có thể nửa giờ hoặc hơn nữa> <==Chắc bạn VH đang TẬP NÍN THỞ! Đây không thể gọi là NIỆM ĐÃ VỮNG mà TƯỞNG RẤT VỮNG alt=”:)” aria-label=smile title=”:)” v:shapes=”_x0000_i1025″>

Phạm Doãn “…khoảng cách từ hơi thở vào chạm của mũi cho đến hơi thở ra chạm cửa mũi nó rất dài, có thể nửa giờ hoặc hơn nữa.” . Tôi nghĩ lúc này hơi thở quá nhẹ (hoặc ta không còn chú ý đến hơi thở nữa) nên ta không có cảm giác thở. Nghĩa là vẫncòn có thở, dù rất nhẹ, nhưng ta không còn cảm nhận được! Trạng thái này là rất tốt để khởi đầu cho Niệm!

Thuận Pháp Dhammiko Theo TP thấy trong cmt của cô Viet Huong có 3 điểm đáng nghi ngờ, có thể nói là không thực sự xảy ra đ/v người hành thiền niệm hơi thở:

+ <khoảng cách từ hơi thở vào chạm của mũi cho đến hơi thở ra chạm cửa mũi nó rất dài, có thể nửa giờ hoặc hơn nữa>. Có thể đây là trường hợp bị “phóng dật” hay không phải đang niệm hơi thở mà đang niệm cái gì khác. Dù hơi thở có nhẹ tinh tế đến đâu thì nếu tâm có sự ghi nhận nó cũng sẽ bắt được hơi thở cả, các trạng thái như tâm có tham muốn, hay tâm có sân hận còn khó ghi nhận hơn cả hơi thở tinh nhẹ!
+ <tỉnh giác được hơi thở lan tỏa toàn thân>. Hơi thở có giỏi lắm thì cũng chỉ lan tỏa từ lỗ mũi đến phổi, tức ngang lồng ngực là cùng, nó không thể lan tỏa toàn thân được. Đây có thể là tưởng tượng, kiểu như “Từng bước nở hoa sen” vậy!
+ <Thoạt tiên vh cũng có tâm chờ cái xúc chạm của hơi thở ra ở cửa mũi>. Hơi thở luôn luôn hiện diện nơi mọi người mọi lúc mọi nơi khoảng 2 giây một lần, không việc gì phải chờ đợi nó cả. Nếu tâm có ghi nhận thực tại, hiện tiền thì thấy hơi thở liền, trừ trường hợp tâm không hướng đến nó.

Nguyen Thi Viet Huong Kính chào quí Thiện Hữu. Trước khi „hơi thở toàn thân“ thì Niệm đã bám chặt ở chỗ xúc chạm một thời gian dài rồi ạ.
Hơi thở khắp toàn thân rất chính xác & không ngoại trừ bên trong của mũi. Lần đầu tiên như thế chắc chắn là phải ngạc nhiên chứ, nên tâm „chờ“ ở đây với nghĩa là muốn kiểm soát lại hơi thở ra, nhưng rõ ràng hơi thở đã bao trùm toàn thân rồi, làm sao có ra hay vô được.
Lúc đó chỉ có tỉnh giác & Niệm biết những làn hơi chuyển động nhẹ trong toàn thân mà thôi.
Một khi Niệm lực mạnh thì cho dù tâm mình có bị tiếng động làm thất niệm 1 thoáng, lực của Niệm sẽ kéo tâm trở về đề mục liền tức thì. (đây là kinh nghiệm tự thân)
Những kinh nghiệm tu tập qua hai bài kinh Nhập Xuất Tức Xuất Niệm & Tứ Niệm Xứ chắc chắn ít ai giống ai tùy theo nghiệp mỗi người, dù phương pháp có giống nhau. Nhưng mong rằng có người trải nghiệm giống vh.
Vh muốn lên đây học ở quí Tăng Ni & quí Đạo Hữu về Kinh & Pali, thấy thắc mắc này có nhiều & không chỉ ở nơi đây nên thành tâm chia xẻ. kính

Hoàng Lan   @Nguyen Thi Viet Huong Chị Viet Huong tham khảo cách thực hành pháp tu TNX của Thầy Thông Lạc xem sao, theo chỗ Hoàng Lan biết thì chị ko nên để dính tâm trên hơi thở như vậy, theo HL thì chị hình như bị vô kí, ngoan không. Tài liệu pháp âm thì chị có thể vào Wall của Tứ Diệu Đế kéo xuống, nghe folder Pháp hành và Thông suốt những gì cần thông suốt, chị nghe sẽ hiểu trạng thái tâm TNX nó như thế nào, tuy Thầy Thông Lạc dạy khó nghe nhưng chịu khó nghe sẽ rất lợi lạc, cá nhân HL thấy rất đầy đủ, chi tiết cụ thể từ pháp Tứ Chánh Cần, TNX, Thiền vô sắc và Hữu sắc cũng như giải thích các trạng thái của các loại thiền này. Mấy hôm nay HL đọc cm của chị, tính ko cm mà lại áy náy nên viết luôn đây chia sẽ cùng chị, biết đâu chị có duyên.

Phạm Doãn Hiện giờ ít có trường thiền nào tu “Thiền Định” nữa rồi.
– Còn cái gọi là “Thánh Định” phải hiểu như thế nào đây?
Không biết T.V. Chân Như đã phân biệt giữa “Thánh Định” và cái “không phải là Thánh Định” căn cứ ở chuẩn mốc nào?
– Chỉ cần có định nghĩa rõ ràng về Thánh Định hoặc có cách phân biệt giữa Thánh Định với các loại Định khác (về bản chất và nội dung) là có thể tìm lại một phần quan trọng của Đạo Phật Nguyên Thủy “gồi” !

Nguyen Thi Viet Huong Hoàng Lan kính.
vh cám ơn tâm từ bi của bạn. vh đã có Thầy.
gia đình vh cũng có người theo thầy Thông Lạc, nên vh có biết về cách của Thầy.
giai đoạn nhỏ mà vh đã chia xẻ trên đây do duyên nghe & thấy thắc mắc này khắp nơi, biết mà không nói lên thì tâm cũng có áy náy, đây có lẽ cũng là gốc tâm sân, nên vh đã quyết định nói lên.

giai đoạn nhỏ này vh đã qua rồi, một lần nữa cám ơn HL nhắc nhở. Đúng vậy, hơi thở buổi ban đầu cần thiết để tạm thời ngăn 5 triền cái, con đường dài tâm mang theo thân, thọ, tâm, pháp vh thấy chính xác là như thế, cũng như chiều dọc hiển nhiên của Tứ Thánh Đế, Đức Phật không nói chi là không có nghĩa lý sâu đậm, phải không Hoàng Lan ?

vh đang tìm tòi học Pali, may quá gặp được quí vị trong này. Chân thành tri ân tất cả. kính

Hoa Nguyen Cám ơn anh Sinh Ha Vinh hôm nay đọc comment tôi viết đã lâu và click Like, nhờ đó tôi có dịp đọc lại điều mình viết và đã quên mất. Thắc mắc về thế nào là “thở toàn thân” là tôi nêu lên, còn giải đáp ghi ra là của các bậc thầy, nhưng vì vẫn có ý kiến khác nhau (giữa các thiền sư) nên ai hiểu thế nào là tuỳ theo kinh nghiệm tu tập bản thân (hay tuỳ pháp hành thầy dạy).
Cách theo dõi hơi thở ra vào qua mũi không giống nhau, và đưa tới hai lối thiền có mục đích khác nhau. Sách viết nếu theo dõi hơi thở từ mũi vào đi tới lồng phổi (hay có khi cho là tới bụng) thì đó là lối quán hơi thở (của thiền quán), còn nếu theo dõi hơi thở qua lại (và chạm nhẹ) ở đầu mũi, ở môi trên, tâm ý chỉ ở một điểm, là theo lối thiền an chỉ (để đi tới định). Kinh An ban thủ ý dùng hơi thở để đi tới Tứ thiền định, nên dạy thở theo cách sau.
Hơi thở ra vào có liên hệ đến nhiều cơ quanh lồng ngực, lưng, vai, xương sống, bụng…, nên nếu chú tâm có thể nhận thấy những cảm giác nhẹ ở những nơi đó, và có thể tạo nên ý tưởng “thở toàn thân thể”. Anh Karmalawnet có kể là chỉ cần vài hơi thở cũng thấy những cảm giác như vậy (mạnh hơn). Và còn có thể dẫn tới các cảm thọ hỷ, khinh an nếu quen tu tập (nhất là theo Tứ thiền).
Tôi nghĩ khi để tâm theo dõi cảm giác của “hơi thở toàn thân”, thì có thể tạm thời quên mất việc theo dõi hơi thở ra vào đi qua mũi lúc đó trở nên rất nhỏ, nhẹ. Ở Thiền An Chỉ, phải tới Tứ thiền (hữu sắc) mới có cảm giác ngưng bặt hơi thở (tôi lại không nghĩ là ngưng hơi thở thật sự mà có cảm giác như thế khi hơi thở trở nên rất nhẹ và dài).

Hoàng Lan @BS Phạm Doãn, Thánh Định là 4 thiền từ Sơ thiền – Tứ thiền trong Bát Chánh Đạo, chi cuối cùng, nếu BS có duyên thì nghe và tìm hiểu kỹ thì sẽ rõ cách Thầy Thông Lạc dạy. Các trường thiền, bắt đầu từ TNX trở đi là mỗi nơi tu một kiểu. Ở Pali chuyên đề này con nghĩ chưa hợp thời, chưa hợp nơi nên con không có viết ra đây. Con kính chúc BS cùng quý Sư luôn an lạc _()_

Hoàng Lan Ý thứ 2 trong cm của BS rất hay, chỉ cần chúng ta biết nội dung và hình thức của các loại Định hữu sắc và Vô sắc thì sẽ tự biết nên tu cái nào. Các nội dung và cách tu định hữu sắc cũng như vô sắc, và cách nhập tam minh, nếu BS Phạm Doãn nghiên cứu đựoc bài giảng của Thầy Thông Lạc thì con nghĩ BS sẽ nắm rất rõ về nội dung, hình thức và cách thực hành, rồi từ đó BS có thể đối chiếu lại kinh điển. Một khó khăn cho ai học Thầy Thông Lạc đó là thầy ít dùng kinh để viết, mà thầy chỉ dùng kinh nghiệm tu tập mà nói ra, nên nếu muốn tra cứu tìm tòi thì chỉ có cách thực hành một thời gian sẽ hiểu.

Phạm Doãn   @ Hoàng Lan trả lời: “ Thánh Định là 4 thiền từ Sơ thiền – Tứ thiền trong Bát Chánh Đạo, chi cuối cùng”
– Theo như tôi hiểu, thì tất cả mọi người tại PLCĐ đều hiểu như vậy! Kinh có lúc dùng chữ Định có lúc dùng chữ Thánh Định với ý nghĩa là như nhau. “Định là chi cuôi cùng trong Bát Thánh Đạo”. Đúng! Không có tu sĩ hay các trường thiền nào dám nghĩ khác . Tôi bảo đảm như vậy!
– Bởi vì tu viện Chân Như cho rằng các loại thiền-định tu tập của Đại Thừa (và kể cả của Theravada) đều không phải là Thánh Định, mà là Định của “ngoại đạo”, nên người quan tâm mới buộc phải tìm hiểu thế nào là “THÁNH ĐỊNH” và thế nào “không phải là Thánh Định”

“nếu BS có duyên thì nghe và tìm hiểu kỹ thì sẽ rõ cách Thầy Thông Lạc dạy”
– Câu hỏi này phát sinh là do tôi đọc rất nhiều tài liệu từ Chân Như đó Hoàng Lan ơi! Người trong nhà cả mà id=”.reactRoot[27].[1][2][1]{comment329289377158180_370165976403853}..[1]..[1]..[0].[0][2]..[3]..[31]” alt=”:P” aria-label=tongue title=”:P” v:shapes=”_x0000_i1026″>. Nhưng mà cứ né tránh mãi “chuyện trong nhà” không đem ra thảo luận thì chúng ta cũng không chân thật! Thôi khép chuyện này lại nhé! Hi hi…

Hoàng Lan Dạ vâng, con cũng biết BS đã từng lên CN và từng đọc tài liệu CN, nhưng hình như BS chưa nghe pháp âm? Các loại thiền và cách thực hiện như thế nào Thầy Thông Lạc có dạy trong pháp âm rất rõ. Dạy trong các lớp học Chánh Kiến. Có nhiều lý do, trước hết là trên fb như thế này khó nói đc hết ý con muốn trình bày, mà có những cái ko trình bày hết được thì sẽ dẫn đến hiểu nhầm đi thì ko ổn, do vậy con mới nói là chưa có dịp.

Tứ Niệm Xứ   @Hoàng Lan: cách của Thầy Thông Lạc là người tu sĩ phải có giới đức, giới hạnh, giới hành,… tu tập vào pháp Tứ Niệm Xứ, làm cho xung mãn Tứ Niệm Xứ, Tứ Niệm Xứ xung mãn làm cho Thất Giác Chi xung mãn, từ đó có Tứ Thần Túc rồi hướng tâm, dẫn tâm đến Tam Minh phải không?

Hoàng Lan

Lộ đạo tu tập ở CN cơ bản giống như bài kinh Phẩm song đôi http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-kinh-tangchibo/tangchi10-0406.htm hay anh đọc ở bài kinh Đại kinh xóm ngựa. Cụ thể cách thức như thế nào TNX –> Tam Minh thì anh có thể nghe các file âm thanh sẽ có. Các trường thiền bắt đầu sai biệt từ chỗ TNX, ở CN thì TXN là pháp tu ở lớp thứ 7, tức Chánh Niệm. Muốn đến Chánh Niệm thì phải tu các pháp trước đó ở lớp Chánh Kiến –> Chánh tinh tấn, mỗi giai đoạn thì trạng thái tâm khác nhau và cách tu khác nhau.

Tæng Chi Bo – Chuong 10 – Pham 04-06

www.buddhanet.net

Kẻ phá hòa hợp TăngBị rơi vào đọa xứ,Bị rơi vào địa ngụcKéo dài đến một kiếp;Ưa …See More

Thien Nguyen Ba Trích trong Phẩm Song đôi:

“4. Và này các Tỷ-kheo, Ta nói minh giải thoát có thức ăn, không phải không có thức ăn. Và cái gì là thức ăn cho minh giải thoát? Bảy giác chi, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng Bảy giác chi có thức ăn, không phải không có thức ăn. Và cái gì là thức ăn cho Bảy giác chi? Bốn niệm xứ, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng Bốn niệm xứ có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho Bốn niệm xứ ? Ba thiện hành, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ kheo, Ta nói như rằng ba thiện hành có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho ba thiện hành? Các căn được chế ngự, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng các căn được chế ngự có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho các căn được chế ngự? Chánh niệm tỉnh giác, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, chánh niệm tỉnh giác có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho chánh niệm tỉnh giác? Như lý tác ý, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng, như lý tác ý có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho như ý tác ý? Lòng tin, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói lòng tin có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho lòng tin? Nghe diệu pháp, cần phải trả lời như vậy. Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng nghe diệu pháp có thức ăn, không phải không có thức ăn. Cái gì là thức ăn cho nghe diệu pháp? Giao thiệp với bậc Chân nhân, cần phải trả lời như vậy.”

Mình có đọc bài này ở tựa đề: “MÓN ĂN GIẢI THOÁT” mà Trưởng Lão Thích Thông Lạc ghi.

Tứ Niệm Xứ   @Hoàng Lan: có cái khó ở đây là 4 thiền nằm trong giai đoạn nào ở tiến trình Tứ Niệm Xứ —> Bảy giác chi —> Minh giải thoát?

Không lẽ đạt được Minh giải thoát (Tam minh) không thông qua 4 thiền sao?

Thuận Pháp Dhammiko   @Hoàng Lan: <Thánh Định là 4 thiền từ Sơ thiền – Tứ thiền trong Bát Chánh Đạo, chi cuối cùng, nếu BS có duyên thì nghe và tìm hiểu kỹ thì sẽ rõ cách Thầy Thông Lạc dạy. Các trường thiền, bắt đầu từ TNX trở đi là mỗi nơi tu một kiểu. Ở Pali chuyên đề này con nghĩ chưa hợp thời, chưa hợp nơi nên con không có viết ra đây>??? Sơ thiền – Tứ thiền là Thánh Định hay Phàm Định, hãy xem xét kỹ lại chỗ này. Hãy phân biệt sự khác nhau giữa Định, Chánh Định và Thánh Định; cũng như sự khác nhau của Niệm, Chánh Niệm và Thánh Niệm.

Có lẽ PLCĐ không có duyên với pháp của thầy Thông Lạc chứ không phải chưa hợp thời. Người vẫn còn Māna thì chưa sáng suốt đâu!

Hoàng Lan Vâng, tùy anh thôi, ở đây cũng có khá nhiều người đang tu pháp mà Thầy Thông Lạc triển khai chứ ko ít, thậm chí nhiều vị tăng trưởng trí tuệ nhờ đọc sách của Thầy. Cá nhân HL có nhiều điểm chưa thể hiểu lời Thầy nhưng thấy có lợi lạc mới giới thiệu cho chị Viet Huong. Còn Thánh định phàm hay Thánh định thì Hoàng Lan chưa biết để trả lời anh vì HL chưa tu đến đó Lời Gốc Phật Dạy là tên bộ sách 4 tập do Thầy Thông Lạc viết giải thích các bài kinh nguyên thủy, tất nhiên Thầy Thông LẠc ko phải là Ngài Thích Ca Mâu Ni rồi. Pháp dạy thì như vậy, ai hiểu và hành có an lạc cho thân tâm, tăng tiến trên con đường tâm linh là ở mỗi hành giả, cá nhân HL giới thiệu cho chị Viet Huong nên mới sinh ra mấy cm này, do đó là HL rất đắn đo khi cm cho ai đó. Ko phải thời và ko đúng đối tượng, ko đúng nơi thế nên HL mới xin dừng.

Thuận Pháp Dhammiko Nếu thế thì dùng Private Message tốt hơn! Nhưng cmt ở đây thì người khác có thể góp ý sửa chữa giùm.

Ví dụ trong Tam Minh thì 2 Minh đầu có liên quan đến chút Tứ Thiền. Còn Minh thứ 3 là Lậu Tận Minh thì không cần tới Tứ Thiền mà là liên quan tới Tuệ – Paññā!

Hoàng Lan Ví dụ trong Tam Minh thì 2 Minh đầu có liên quan đến chút Tứ Thiền. Còn Minh thứ 3 là Lậu Tận Minh thì không cần tới Tứ Thiền mà là liên quan tới Tuệ – Paññā! << anh có thể giải thích trong kinh chỗ nào nói về cách thực hiện minh thứ 3 mà ko cần qua tứ thiền ko?

Thuận Pháp Dhammiko Có nhiều chỗ lắm và ở PLCĐ này cũng có thảo luận rồi. Giờ thì TP chuẩn bị out FB rồi! Vấn đề Tam Minh thì bên Phật tử Nguyên Thủy biết rõ lắm, như Phật Pháp căn bản vậy.

Hoàng Lan HL ko dám chắc, thú thật HL đã tham gia PLCĐ cả năm nay nhưng chưa thấy ai nói điều trên, đây là lần đầu tiên nghe nói, nên mong anh hoan hỷ chỉ cho. Xin đa tạ!

Thuận Pháp Dhammiko Tức là những vị Thánh Tăng đắc Đạo Quả do nhờ quán sát các oai nghi phụ, đắc Đạo Quả do nhờ nghe nữa câu kệ, 1 câu kệ, … những vị này hình như chưa đắc Tứ Thiền Bát Định gì cả. Những vị chủ trương phải đắc Tứ Thiền rồi mới thực hành Tam Minh hiện nay như Pa auk Forest hay Chân Như có thể làm cho nhiều người căng thẳng do không hợp duyên. Phật Pháp có rất nhiều pháp uẩn để mọi người lựa chọn, nhưng tốt nhất thì phải học Tam Tạng, Pāli, Abhidhamma cho thật vững rồi mới đi vào pháp hành của mình. Bởi vì sở học phục vụ cho nhiều đời nhiều kiếp trong luân hồi sinh tử chứ không riêng cho chỉ trong đời này.

Vô Vô Không Đồng ý với Thuận Pháp Dhammiko Trong kinh khẳng định và trên các trường thiền cũng đồng nhất ý kiến đó là giới định tuệ kết hợp. Trong kinh cũng khẳng định chỉ cần sơ thiền kết hợp với giới và tuệ cũng đủ chứng đắc. Những ai bảo rằng có khác nhau giữa các trường thiền thì đương nhiên vì vị ấy đi tới 1 nơi và thở rồi sau 1 tuần hay 1 tháng về nhà không giữ giới, tỉnh giác…cho nên thấy khác là vậy, khác là do mình hành chưa tới. Một điều nữa mình chứ không phải Phật hay thầy chọn đề mục cho mình, ngày nay khó kiếm vị thầy chứng tam minh như Phật hay ngài Ca Diếp, để thấy nghiệp tâm của chúng sinh mà chỉ cho đệ tử phải chọn đề mục thiền phù hợp, hay trí tuệ đệ tử đang ở đâu để khuyến khích… tam minh đó là con đường của những vị có ba la mật, trí tuệ, hạnh nguyện…Tu gì thì tu phải có nhiệt tâm, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm mọi nơi mọi lúc trên thân rồi thọ đến tâm, pháp thì đó mới là con đường tu chính đúng của các vị tu thiền.

Phan Duc Tuan Xin hỏi quí vị tại sao quan sát các oai nghi phụ đi, đứng, co duỗi chân tay thì có thể đắc đạo quả, tại sao? mong được giải thích.

Vô Vô Không “Khi một người tu tập một pháp môn không thích hợp thì khó tiến bộ, lâu đắc thánh quả, khi tu tập một pháp môn thích hợp thì dễ tiến mau đắc” Buddhaghosa

Hoàng Lan  @Thuận Pháp Dhammiko Anh khoan đã đánh giá lộ đạo của CN hay Pa-uck có làm hành giả căng thẳng hay ko – Pháp của Đức Phật là thiết thực hiện tại, nên ko có chuyện căng thẳng ở đây, có tu có giải thoát, có sự an lạc thanh thản ngay tại thân tâm của mình chứ căng thẳng thì tu để làm gì? Cái HL nêu câu hỏi ở trên là trên cơ sở bài kinh nào mà anh cho rằng thực hiện Minh thứ 3 mà ko cần thực hiện Tứ thiền? Chỗ này là chỗ mà HL muốn nhờ anh giải thích, xin cảm ơn anh.

Thuận Pháp Dhammiko Có người qua tu Pa auk và bị căng thẳng nên về mà! Nhiều người nữa là đằng khác!

Có 1 bài kinh nói về tu Tuệ trước, tu Định sau:
PTS: A, II, 156 (Arahattappattisuttaṃ)
Có 1 bài kinh nói về tu Tuệ trước, tu Định sau:
PTS: A, II, 156 (Arahattappattisuttaṃ)

20. Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tatra kho āyasmā ānando bhikkhū āmantesi; āvuso bhikkhavoti. Āvusoti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ. Āyasmā ānando etadavoca:

Yo hi ko ci āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ vyākaroti. Sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena. Katamehi catūhi?
Idha āvuso bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti, tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhuno dhammuddhaccaviggahītaṃ mānaṃ hoti. So āvuso samayo yantaṃ cittaṃ ajjhattaṃyeva santiṭṭhati sannisīdati ekodihoti samādhiyati. Tassa maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Yo hi ko vi āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ vyākaroti, sabbo so imehi catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarenāti

…. (Ngài Ananda giảng tại Kosambi – Câu-diệm-bi) …

— Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?

(a) Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(b) Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(c) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(d) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
[Kinh Gắn Liền Cột Chặt (Yuganaddha Sutta, AN 4.170). Việt dịch: Ngài Minh Châu]

Nguyen Thi Viet Huong vh nghỉ rằng, nếu quán đủ thân thọ tâm pháp trên các oai nghi phụ thì có thể chứng đắc đạo quả.

Hoàng Lan Thuận Pháp Dhammiko Hoàng Lan nhận thấy bài kinh đó chưa phải nói lên việc thực hiện Minh thứ 3 mà ko cần thực hiện Tứ thiền. Tuy nhiên, HL cũng sẽ ko tiếp tục bàn về vấn đề này để tập trung cho các bài kinh khác thiết thực cho chính mình hơn. Thân mến.

Vô Vô Không Hoàng Lan Trong kinh nói chỉ cần sơ Thiền là có thể giải thoát. Còn về tứ thiền đến tam minh là Phật dạy cho số đông(ai muốn theo số đông thì đi con đường này), có khi là bát thiền, lục thông đối với những vị có mong muốn và định lực tốt kết hợp với quán vô thường vô ngã ở đây chính là quán sinh, tập, diệt của sắc, dục, thọ, xúc…..có những vị quán tuệ trước rồi sau đó mới tu định với những vị đắc định hoặc ngược lại, điều này cũng được chỉ ra trong kinh điển . Có vị thắc mắc hỏi Phật là Trí đến trước hay định đến trước thì được ngài Anan trả lời thay là tuần tự: giới, định, tuệ và trong tứ niệm xứ thì cũng có thứ tự là niệm thân trước rồi mới tới thân, thọ, tâm pháp (đây cũng là con đường xuất hiện phổ biến trong Trung và Tăng, Trường bộ). Cũng cần xem xét cách sắp xếp các kinh và quan điểm bộ phái cho việc hình thành các điểm tương đồng….Không nên chấp vào 1 bài kinh rồi cho đó là tất cả lời Phật dạy. Nếu Hoàng Lan thấy trường thiền này tốt cho mình thì đó là cái thấy của bạn, nó cũng có thể tốt hoặc không cho người khác nếu bản thân không tin…và vị thầy chưa giỏi! Quan trọng là có ai dám từ bỏ lối sống không nhà để lên núi độc cư không! Thân!

Hiếu Nguyễn Phan Duc Tuan: <<Xin hỏi quí vị tại sao quan sát các oai nghi phụ đi, đứng, co duỗi chân tay thì có thể đắc đạo quả, tại sao? mong được giải thích.>>

Theo mình đấy là cái nút chặn cuối cùng thôi. Việc đắc đạo quả nó xảy ra bằng cái động tác cuối cùng đấy, ngoài ra phải tính đến cả một quá trình tu tập lâu dài nữa. (VD: ngài Ananda trong một oai nghi nhỏ mà đắc A La Hán, nhưng thực tế ngài cũng phải tu rất chuyên cần, tích lũy vô số thiện nghiệp).

Phan Duc Tuan Mình đã bỏ công đọc cuốn kinh Trung bộ và nhận thấy các dòng thiền như Mahasi hay pa auk (mình chỉ mới học được 2 dòng thiền này) thấy rằng không giống lắm với lời dạy trong kinh (chỉ gần giống)
Đặc biệt 2 dòng thiền này chỉ dạy cách hành thiền chứ không giải thích vì sao lại làm như thế.
Các bác có thấy thế không?

Thuận Pháp Dhammiko @Phan Duc Tuan có thể tìm đọc cuốn Minh sát thực tiễn của Ngài Sayadaw Mahasi, Ngài giải thích rất rõ phương pháp của Ngài có căn cứ vào Kinh điển Pāli.
http://trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/MinhSatThuc/index.htm

Trung Tâm Hộ Tông – Minh Sát Thực Tiễn

Phan Duc Tuan Ý tôi nói là vì sao làm như thế thì đắc đạo chứ không phải vì sao làm như thế thì phù hợp với kinh điển.

Thuận Pháp Dhammiko PDT hỏi vậy thì hơi khó cho mọi người, vấn đề làm sao để đắc Đạo là rất nhạy cảm, nên hỏi trực tiếp quý Ngài thì đúng hơn, mà Ngài Mahasi không còn nữa, có thể hỏi ngài Pa-auk! alt=”:)” aria-label=smile title=”:)” v:shapes=”_x0000_i1028″>
Hồi trước TP cũng thắc mắc điều này, sau đọc qua cuốn sách đó nhiều lần, xong và dự khóa thiền của Sư Khánh Hỷ hướng dẫn theo cách của Ngài Mahasi thì thấy rất lợi lạc và hiệu quả.

Hiếu Nguyễn Bác Phan Duc Tuan hỏi đúng chỗ hóc rồi alt=”:D” aria-label=grin title=”:D” v:shapes=”_x0000_i1029″>
http://www.thisismyanmar.com/nibbana/pandita5.htm
Trong này có mấy đoạn trả lời của các Sư trong trường phái Mahasi về tính đúng đắn trong phương pháp của họ.

Còn Pa Auk thì họ đặt nền tảng trên phương pháp của Thanh Tịnh Đạo rồi. Cũng là trong Tam Tạng.

Còn vấn đề Thanh Tịnh Đao có “authentic” hay không thì là vấn đề bị cấm ở Pali Chuyên Đề alt=”:D” aria-label=grin title=”:D” v:shapes=”_x0000_i1030″>

Nhiều người cảm thấy Tạng Kinh không có phương pháp cụ thể a, b, c nên họ hợp với Thanh Tịnh Đạo v.v… hơn vì có miêu tả cụ thể từng bước.

Nhiều người thì lại thấy Tạng Kinh là quá đủ, quá chi tiết, quá rõ cách luyện tập. Còn Đức Phật không chỉ rõ chỗ nào thì để tránh người tu không bị nhân đó mà “tưởng tri” thêm.

Điệu này chắc là bác cứ phải tự thử các phương pháp rồi tự mình phải trả lời thôi alt=”:-)” aria-label=smile title=”:-)” v:shapes=”_x0000_i1031″>

Phan Duc Tuan Mình nghĩ rằng câu trả lời nằm ở bài kinh Pháp môn căn bản (bài kinh số 1), tuy mình cũng đang tìm kiếm phương pháp phù hợp với mình chứ chưa có kết quả.

Hiếu Nguyễn Ừ, mình còn ở thành phố, còn đi làm, thì làm sao hiệu quả được. Mình đọc về chùm sách của Forest Dhamma, thấy rất cảm động trước sinh hoạt của các Sư ở bên Thái trong thế kỷ trước. Đời sống độc cư, thanh tịnh, thiếu thốn nhưng dũng mãnh như vậy mới ra ngô ra khoai.

Hoàng Lan @Phan Duc Tuan Xin hỏi quí vị tại sao quan sát các oai nghi phụ đi, đứng, co duỗi chân tay thì có thể đắc đạo quả, tại sao? mong được giải thích. <== Theo Hoàng Lan thì quan sát như vậy đó là tu tập tỉnh giác, chứ ko thể chứng đạo đc với cách này. Vì sao lại phải tu tỉnh giác? Vì khi mình tỉnh giác thì mới nhận ra được các tâm niệm thiện và bất thiện rồi từ đó xử lý nó (kỹ thuật xử lý thì mỗi trường thiền 1 kiểu, nên ko bàn ở đây). Liệu có chứng được ko khi chi tu tập tỉnh giác mà ko quét sạch 5 thượng/hạ phần kiết sử? Ko quét đc các xan tham, tâm hoang vu? v.v…

Phan Duc Tuan Tôi nghĩ hoàn toàn được, bác có công nhận toàn bộ phương pháp tu tập tứ niệm xứ hay chỉ quan sát oai nghi thôi về nguyên tắc là đều chỉ là chánh niệm hết trơn. Theo tôi hiểu chánh định trong Bát chánh đạo chỉ là sự chú tâm trên chánh niệm mà thôi. Nghĩa là sự chú tâm không không mang lại chánh niệm cũng là định nhưng không phải là chánh định. Chỉ có hai loại định này

Hoàng Lan Ko đâu anh, anh có biết trên TNX nhiếp phục tham ưu như thế nào ko? Nó là giai đoạn tu sau chứ ko phải tu trước, anh đọc kinh song tầm và an trú tầm xem sao, tại sao bài kinh này lại nói tác ý còn TNX thì chỉ cần hay biết các hành động đi đứng nằm ngồi, các tâm. Thật ra trên TNX thì ko còn phải dụng công để biết, mà nó tự biết, anh đi thì nó biết đi, đứng thì nó biết đứng, nói chung cái gì động thì nó biết động, khi ngồi xuống thì nó biết hơi thở 1 cách tự nhiên.v.v..

Phan Duc Tuan Tôi tìm hiểu kinh trung bộ đến tận cùng vì sao tu tập tứ niệm xứ lại đắc đạo và chỉ có thể hiểu được như trên.
Những bài kinh kia đức Phật dạy những “chiêu” để chế ngự bất thiện pháp khởi lên mạnh mẽ thôi, những bài kinh đó trong cuốn kinh trung bộ rất nhiều.

Hoàng Lan Dạ vâng, bài kinh TNX rất quan trọng, hihi. Nhưng pháp tu nếu ta chỉ ở ngoài đọc kinh mà suy luận thì sẽ ko thấy đc, chỉ có thực hành thôi anh.

Hoàng Lan Chúng ta cố gắng hiểu bài kinh này bài kinh kia, nhưng trong bài kinh thì có 1 lộ đạo, trong đạo lộ có nhiều bước, chúng ta ko bước đi bước 1 mà cố hiểu bước 2 là khó khăn, vì bước 1 là duyên của bước 2, bước 2 là duyên của bước 3…. Chưa vào bước 1 mà đòi hiểu bước 2, 3 là khó khăn, hihi.

Nguyen Thi Viet Huong Phan Duc Tuan: “quan sat các oai nghi phụ có thể đắc Đạo quả ? ” thì có thể được. Chứ không phải là “chỉ quan sát các oai nghi phụ có thể đắc Đạo Quả?”

Phan Duc Tuan Tôi hiểu ý bác rồi theo tôi hiểu quan sát oai nghi nó cũng tương tự như hơi thở thôi đều là nằm trong tứ niệm xứ với thân thọ tâm pháp thông qua các cảm giác lục căn tiếp xúc lục trần

Hoàng Lan Không phải vậy đâu, HL nghĩ tốt nhất anh nên tìm một vị thầy nào đó mà tu học thay vì phải đoán như vậy. Đây là những pháp hành cơ bản ban đầu, đó là tập tỉnh giác. Hay anh tham khảo bài kinh thân hành niệm + kinh song tầm + kinh an trú tầm + kinh Đoạn tận lậu hoặc mà thực hành.

Phan Duc Tuan Có thể tôi diễn đạt không tốt lắm nhưng tôi nghĩ cuốn kinh trung bộ mô tả cách hành thiền chi tiết và đầy đủ đó chính là vị thầy

Nguyen Thi Viet Huong

làm gì cũng phải có chánh niệm tỉnh giác trước, rồi mới thấy Pháp trong oai nghi chính & phụ, nhờ đó đắc Đạo Quả qua 1 trong các oai nghi này.

đạo hữu Hoàng Lan nói đúng, phải có Thầy, và quan trọng là Thầy sẽ gỡ cho mình chỗ kẹt, dù đường đi thì có một, nhưng vẫn phải độc hành theo cái Nghiệp, nên đường đi xem vậy mà cô đơn lắm. Chỉ kẹt 1 chút, đứng lại bao nhiêu năm tháng.

Phan Duc Tuan Bác có thể giải thích thấy Pháp trong các oai nghi nghĩa là thế nào không? Vị thầy nào có thể chắc chắn đi đúng đường có thể nói tên được không?

Hoàng Lan Anh đọc bài kinh nào nói thấy pháp trong các oai nghi? Như HL đã nói, anh nên tham khảo pháp hành của 1 trường thiền nào đó, sau đó anh khám phá dần dần.

Phan Duc Tuan Tôi hiểu thấy Pháp ở đây là thấy tam tướng Vô thường, khổ và vô ngã, cái này Đức Phật có nói, ý bác Viet Huong có phải vậy không?

Hoàng Lan

Pháp là pháp chứ ko phải pháp là tam tướng, pháp là thân, thọ, tâm và 6 trần xung quanh.

Ví dụ khi giơ cánh tay lên, niệm chặt chẽ liên tục từ lúc mới giơ lên cho đến lúc cánh tay hạ xuống, khoảng thời gian đó không phải là 1 thời gian (thì đó thuộc về quán Pháp, quán sanh diệt, hay quán sắc sanh diệt) .
cái gì biết sắc sanh diệt ? ( 5 uẩn) . Cái gì bám chặt & rõ ràng trên sự cử động ? (niệm giác chi)

đây chỉ là 1 ví dụ thôi. Đạo Hữu PĐT cần tìm Thầy để học chứ không nên chỉ nghe mọi người diễn tả.
Sau khi có chánh niệm tỉnh giác, Tâm sẽ hướng Đạo Hữu theo chiều chân lý, mà không phải là bôn ba đi tìm như lúc ban đầu.

Nói vậy không phải có chánh niệm tỉnh giác rồi là mọi việc dễ dàng, con đường càng lúc càng dốc & hẹp làm sao dễ được, nhưng quan trọng lúc đó tâm hướng về đâu, xuôi về đâu.

pháp học thì nói bao nhiêu cũng không sao, tùy mọi người nhận hay không nhận. Nhưng pháp hành thì khó. Theo vh TNX là con đường duy nhất cũng có 1 ý nghĩa đi 1 mình & biết một mình (ngoại trừ vị Thầy hướng dẫn)

Kính chúc Đạo hữu tìm được Thầy thích hợp.

Phan Duc Tuan Theo tôi hiểu từ pháp trong đạo Phật có nghĩa là các sự vật hiện tượng do nhân duyên mà sinh ra hoặc diệt đi. Thấy Pháp là thấy được bản chất các hiện tượng đó tức là thấy được Sự vô thường khổ và vô ngã.
Tôi không hiểu ý bác Hoàng Lan lắm về ý nghĩa từ này lắm?

Phan Duc Tuan Theo tôi hiểu giáo Pháp của Đức Phât rất đơn giản nhưng lại rất khó diễn đạt để con người hiểu phải là một người đa văn có trí tuệ siêu việt mới làm được nên mới có những vị như Độc giác Phật

Bottom of Form